D-Crew


Join the forum, it's quick and easy

D-Crew
D-Crew
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Latest topics
» Detective Conan - file 770
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 5:31 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 769
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 5:25 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 768
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 5:17 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 767
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 5:11 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 766
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 5:01 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 765
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 4:52 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 764
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 4:46 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 763
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 4:42 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 762
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ EmptySun Jan 08, 2012 4:40 pm by 6-24-18-6-2

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     

Calendar Calendar


[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_

Go down

[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_ Empty [Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm (5_

Bài gửi by HD Sat Feb 12, 2011 3:45 pm

Olivia đề nghị cả bọn vào phòng ngủ chung của nó, vì cái phòng đó gần hơn phòng của tụi con trai. “Nó ở hành lang này, chỉ còn cách ba phòng nữa thôi,” Olivia nói. “Tụi mình còn có thể tắm rửa sạch sẽ trước khi bà giám thị bắt đầu đi tuần như thường lệ.”

Cô nhỏ nói ra điều này quá trễ. Bà giám thị đã bắt đầu những vòng tuần tra rồi đấy. Ngay khi cả bọn vừa tới phòng ngủ chung của Olivia thì cửa bật mở, và bà giám thị xồ ra. Chỉ khi đó, Charlie mới khám phá ra tại sao giọng nói của bà ta lại có vẻ quen thuộc đến thế. Bà giám thị chính là bà cô Lucretia Yewbeam.

Tất nhiên, Billa và Oliva chỉ đơn thuần nhận ra bà ta là giám thị của trường thôi, nhưng Charlie thì sửng sốt đến nỗi nó cảm tưởng như vừa bị tống một trái vô bụng. Nó gấp gáp thở, hớp hớp không khí và nói lắp bắp, “Bà Lu... Lu... Lucretia!”

“Ta là giám thị!” bà cô Lucretia cáu kỉnh.

“Con... con... con không... không biết bà là giám thị,” Charlie lắp bắp, vẫn còn bị sốc.

Thời buổi này ai cũng phải đi làm để kiếm sống,” giám thị Yewbam đáp lời.

Ngỡ ngàng hết sức, Olivia và Billy hết quay nhìn Charlie lại ngó sang bà Lucretia, rồi lại quay nhìn Charlie.

“Bọn bay dơ dáy hết chỗ nói,” bà giám thị nói tiếp. “Chúng mày vừa chui ở đâu ra, hả?”

Olivia đã sẵn sàng cho câu hỏi này. Không một chút chần chừ, nó đáp, “Dạ, tụi con ra vườn chơi, nhưng khi quay về thì cửa đã khóa, thế nên tụi con phải đi lòng vòng và tìm thấy một cửa sổ, tụi con leo vô một căn phòng trống bẩn thỉu kinh khủng. À, thực ra thì, tụi con bị té vì cửa sổ khá cao.”

Bà giám thị nhăn mặt. Bà có tin Olivia không? Cũng có thể ai đó đã khóa cửa khu vườn thật. Bà hăm dọa, “Ta định sẽ phạt tấ cả tụi bay thêm hai mươi bốn giờ cấm túc nữa; nhưng may phước cho tụi bay là ta cũng muốn nghỉ, cho nên lần này ta tha cho tụi bay, chỉ cảnh cáo thôi.”

“Tụi con cảm ơn bà,” Olivia vồn vã nói.

“Tuy nhiên!” Giám thị Yewbeam không dễ dàng bị đánh lừa như thế. “Tất cả tụi bay phải đi ngủ, ngay tức khắc.”
“Nhưng tụi con còn được thức một tiếng nữa cơ mà,” Billy nói một cách dũng cảm.

“Một tiếng ấy là để tắm rửa,” bà giám thị lạnh lùng phán. “Hai tụi bay đi ngay đi.” Rồi bà quay sang Olivia. “Còn mày thì để tao rửa sạch đầu gối cho nào!”

Bỏ lại Olivia cho sự chăm sóc còn lâu mới dịu dàng của bà giám thị. Charlie và Billy tìm đường quay về phòng ngủ chung của chúng.

Rốt cuộc ngôi trường gần như vắng tanh này cũng có cái gì đó đáng nói. Đó là nước trong vòi nóng bỏng. Cho đến bây giờ Charli chỉ mới tắm nước lạnh có một lần. Nó không phải là đứa thích tắm. Nhưng hôm nay là lần tắm lâu nhất, nóng nhất mà nó nhớ được.

Nă m phút sau khi bọn con trai đã leo lên giường thì có tiếng gõ cửa, và Olivia xăng xái ùa vào. Cô nàng bận áo đầm ngủ bằng nhung trắng, điểm những bông hoa tím bự tổ chảng, và mái tóc màu tím đã chuyển sang màu nâu nhạt.

“Bà giám thị bắt tớ gội sạch,” nó thông báo cho bọn con trai biết. “Đó chỉ là thuốc nhuộm xịt lên tóc thôi mà.” Rồi nó nhảy tót lên ngồi phía chân giường của Charlie. “Nào, bồ có chuyện gì tính kể với tụi này vậy?”

“Chuyện là thế này,” Charlie bắt đầu, rồi nó kể cho hai đứa bạn nghe tất cả mọi việc đã xảy ra với nó, từ lúc nó nhìn thấy tấm hình người đàn ông lạ ẵm đứa bé cho đến khi nó vào Học viện Bloỏ. “Mình luôn nghĩ rằng món đồ trong thùng rất có giá trị, một món đồ quý có thể đổi lấy cháu gái của cô Ingledew, bất kể con bé đó là ai. Nhưng hình như giáo sư Bloor chỉ muốn hủy nó đi”

“Trước khi nó đánh thức con bé,” Olivia thêm vào. “Và con bé đó chắc chắn là đứa bé đã bị đanh cắp.”

“Vậy tức là, dù gì đi nữa thì món đồ trong thùng vẫn còn giá trị,” Billy xen vào, “vì tác dụng gì gì của nó. Kiểu một loại bùa...”

”Hừm,” Olivia rung đùi. “Mấy người biết tớ nghĩ gì không?” Rồi không đợi hai đứa con trai hỏi, nó nói luôn. “Tớ nghĩ rằng Manfred đã thôi miên con bé. Có lẽ con bé đã bị thôi miên suốt từ hồi bị đánh cắp, bị đánh đổi, hay bị sao đó. Nhưng trò thôi miên này đang mất dần linh nghiệm, cho nên Manfred cứ phải liên tục thôi miên, để bảo đảm con bé không tỉnh lại và chạy trốn, hoặc nhớ ra mình thực sự là ai.”

“Olivia, bồ thiệt là thông minh,” Charlie reo lên. “Thực tình, có dạo mình nghĩ con bé đó chính là bồ.”

“Tớ à? Không đời nào. Ai thôi miên là tớ biết ngay,” Olivia toét miệng cười. “Tuy nhiên tớ dám chắc tớ có thể tìm ra con bé đó là ai.”

“Bằng cách nào?” Charlie hỏi.

“Quan sát thôi. Chuyện này tớ siêu lắm. Nếu đứa bé bị đem đi đổi cách đây tám năm, lúc ấy nó mới gần hai tuổi, thì giờ nó phải cỡ bằng tuổi tụi mình. Chắc chắn con nhỏ đó cũng có phép thuật, thế nên giáo sư Bloor mới muốn bắt nó. Vậy thì, để coi ai có những đặc điểm giống như tớ mô tả nào? Đám phép thuật đằng ấy có mấy người đâu nhỉ?”

“Mười hai,” Billy đáp, “Năm người là nữ. Zelda quá lớn, chị ấy mười ba rồi. Beth cũng vậy. Chỉ còn lại Dorcas, Emilia và Bindi.”

“Không thể là Dorcas,” Olivia tuyên bố. “Nhỏ đó hoạt bát, vui vẻ. Tớ chưa bao giờ thấy ai bị thôi miên mà lại thế cả.”

“Emilia,” Charlie la lên. “Tất nhiên rồi. Nghĩ mà coi. Lúc nào trông nó cũng như đang mê man sao đó, và nó có vẻ sợ giáo sư Bloor nữa.”

“Ai mà không sợ lão ấy?” Olivia nói. “Nhưng tớ nghĩ đằng ấy nói đúng, Emilia ở chung phòng với tớ, thế nên để tớ chong mắt canh chừng cho. Tớ phải đi đây. Chúc các đằng ấy ngủ ngon. Sáng mai gặp lại nha.” Olivia nhảy phắt xuống giường và phóng ra cửa.

Olivia vừa mới rời khỏi phòng thì tiếng bà Lucretia Yewbeam quát om, “Tắt đèn!” Và một bàn tay trắng thò vô qua cánh cửa mở, tắt đèn đi.

Trong giây lát, hai đứa trẻ im. Có bốn cái giường trống ở Charlie và Billy. Phía bên kia của căn phòng, tất cả các giường cũng trống hoác. Điều này khiến Charlie ớn lạnh. Nó tự hỏi, sẽ như thế nào nếu nó là Billy, một mình trong căn phòng to lớn và tối tăm này và mỗi cuối tuần.

“Billy,” nó thì thào. “Cuối tuần sau em về nhà anh nhé? Họ có cho không?”

“Ồ, được chứ,” Billy hồ hởi đáp. “Em đã đến nhà anh Fidelio rồi. Nên em chắc họ sẽ cho em tới nhà anh thôi.”

“Hay quá.”

Rồi có một tiếng cót két, tiếng lê chân nhè nhẹ, và một tia sáng đèn yếu ớt chĩa về phía giường Charlie. Charlie chỉ nhận ra dáng người nhỏ bé của Billy trong bộ đồ ngủ màu xanh nhạt.

“Charlie, anh nói là anh có thể nghe người trong hình nói chuyện, phải không?”

“Ờ,” Charlie trả lời một cách không chắc chắn. “Thỉnh thoảng.”

Một tấm hình nhàu nát được đặt lên gối của Charlie.

“Anh làm ơn cho em biết mấy người này đang nói gì đi?” Billy hỏi. “Đây là ba mẹ em.”

Charlie nhìn chằm chằm vào bức hình. Nó thấy một đôi vợ chồng trẻ đang đứng dưới một tán cây. Người phụ nữ mặc áo đầm nhạt màu đến nỗi trông cô giống như một con ma. Mái tóc màu vàng nhạt, gần như trắng. Cả hai đều mỉm cười, nhưng chỉ cười ở miệng. Đôi mắt của người phụ nữ có vẻ sợ hãi, còn mắt của người đàn ông thì tức giận.

Giọng nói thình lình phụt lên trong tai Charlie, khiến nó giật thót đến mức chúi đầu về phía trước, như thể nó vừa bị đập một cú.

Thôi nào, mỉm cười vì thằng con trai bé nhỏ của cô đi, Raven: Quá khó hay sao? Không thể nhầm lẫn cái giọng nói sắc lạnh đó vào đâu được.

Người đàn ông trẻ này nói, Mày sẽ không bao giờ thoát khỏi chuyện này đâu.

Tiếng nói sắc lạnh tiếp tục, Nhìn con trai ta đây, ông Raven. Nó đẹp chứ hả?Thằng Manfred bé bỏng của ta ấy? Thế, thế. Nhìn vào mắt nó đi. Hệt như hai hòn than lấp lánh đáng yêu, đúng không?

“Anh có nghe thấy gì không?” Billy hỏi.

Charlie không biết phải nói gì. Làm sao nó có thể để Billy nghe được những lời kinh khủng đó? Nó quyết định nói dối, nhưng trước khi nó kịp nói thì có một điều xảy ra. Điều mà chưa từng xảy ra với nó trước đây. Nó bắt đầu nghe được những ý nghĩ của người đàn ông.

Chúng ta vẫn có thể trốn thoát. Chúng ta sẽ ẵm bé Billy và lái xe trốn đi, đến nơi họ không thể tìm thấy chúng ta. Giá mà thằng bé kia đừng nhìn mình như thế. Mắt nó y như hắc ín vậy!

“Sao?” Billy lo lắng hỏi.

“Người phụ nữ...” Những ý nghĩ của Charlie chạy loạn xạ, nó quyết định nói dối. “Người phụ nữ nói ‘Nhanh lên anh, em phải trở lại với Billy bé bỏng’. Và người đàn ông nói, ‘Đúng rồi, thằng nhóc của chúng ta thật quý giá. Nó sẽ trở thành một ngôi sao!’”

Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, Charlie cũng có thể nhìn thấy nụ cười hạnh phúc của Billy.

“Còn gì nữa không?” Billy hỏi.

“Không. Anh rất tiếc.”

“Thế người chụp hình có nói gì không? Em không sao tìm được ra đó là ai.”

“Không, anh không nghe thấy gì cả.” Charlie đưa trả lại tấm hình cho Billy.

“Một ngày nào đó có thể em sẽ được nhận làm con nuôi,” Billy nói. “Rồi em sẽ lại có ba mẹ, và em sẽ có nhà như tất cả mọi người.” Nó bò lên giường, và mấy phút sau dã ngủ say sưa, tấm hình nhàu nát được giấu sâu dưới gối.

Charlie nằm thao thức một lúc lâu, cố nghĩ xem điều gì đang diễn ra trong trường Bloor. Trẻ sơ sinh thì bị đánh cắp, con nít thì biến mất, và những ông bố cũng biệt tăm? Người cha mà nó nghĩ là đã chết hóa ra vẫn còn sống, nhưng lại không biết mình là ai.

“Ông cậu Paton.” Charlie lẩm bẩm. “Có thể Ông cậu sẽ tìm ra. Mình cá là Ông cậu biết nhiều hơn những gì Ông cậu thừa nhận.”

Còn một ngày nữa thôi là Charlie đã ở nhà rồi. Và cuối cùng, khi ngủ thiếp đi được, thì những câu hỏi đã dành cho Ông cậu Paton cũng đã hình thành trong óc Charlie

Chương 12
TRÒ ĐẤU TRÍ


Trong bữa ăn sáng ngày hôm sau, Charlie nhẹ cả người khi thấy Manfred vắng mặt ở bàn ăn.

“Cứ cuối tuần là anh ta ngủ trễ,” Billy nói với nó. “Anh ta thức đến nửa đêm. Đứng từ cửa sổ phòng tụi mình là thấy nến của Manfred thắp trong phòng.”

“Lúc ấy hắn làm gì?” Charlie thì thầm.

“Luyện tập ma thuật,” Olivia đáp lời, đảo tròn mắt.

Charlie nghĩ, rắc rối là ở chỗ, dám Olivia nói đúng lắm.

“Vậy là hắn sẽ không theo dõi tụi mình nguyên buổi sáng hôm nay, phải không?” nó hỏi.

“Không đâu,” Billy quả quyết với nó. “Dĩ nhiên là tụi mình vẫn cần phải lên phòng và làm bài. Tất cả sách vở sẽ được sắp sẵn cho tụi mình, với một tờ câu hỏi phải trả lời, nhưng tụi mình có thể nói chuyện, vẽ tranh hay làm bất cứ việc gì tuỳ thích, miễn là ở đó đến 12 giờ và làm xong các câu hỏi.”

Chúng theo nhau đến phòng Nhà Vua, ở đây, Charlie thấy một tờ câu hỏi cực kỳ lắt léo đang chờ nó. Làm chưa hết một nửa, bỗng nó sực nhớ đến Fidelio. “Mình đã hứa phải đến tháp nhạc lúc mười một giờ rưỡi,” nó nói với hai đứa kia. “Fidelio sẽ đến để ra hiệu là anh ấy đã chuyển xong cái thùng.”

“Để tụi này ở đây lo cho,” Olivia sốt sắng đề nghị. “Và nếu đằng ấy chưa trả lời xong mấy câu hỏi, thì lúc quay về cứ cóp-pi bài làm của tớ.”

“Cám ơn nha,” Charlie đáp với lòng biết ơn. Nó nhớ ra là nó không biết đường đến tháp nhạc. Sẽ phải mất cả thế kỷ mới lần ra đường tới đó mất. “Fidelio nói bồ sẽ chỉ đường cho mình, nhưng nếu bồ mắc lo cho mình ở đây thì...”

“Để tớ vẽ bản đồ cho đằng ấy,” Olivia nói.

Cô bé nói là làm. Trong khi Charlie nhấp nha nhấp nhổm với đề bài của mình, cứ năm phút lại liếc nhìn đồng hồ, thì Olivia hí hoáy vẽ sơ đồ đường dẫn đến tháp nhạc. Con bé dúi tờ giấy cho nó.

“Đằng ấy xem là hiểu được chớ?” nhỏ hỏi.

Charlie nghiên cứu tấm bản đồ. “Ừ, mình sẽ đi qua cánh cửa cuối cùng ở cuối hành lang chính.”

“Ừ, phải rồi.”

“Gần... rưỡi rồi đó,” Billy nhắc.

Charlie vọt bắn lên.

“Nếu có ai vô đây hỏi, tụi này sẽ phịa là đằng ấy mới vô nhà vệ sinh,” Olivia nói.

Charlie bước ra cửa, mở cửa và nhìn ra ngoài. Không có ai ngoài đó cả. Nó vẫy chào Olivia và Billy thật nhanh, lỉnh lẹ ra hành lang và khép lại cánh cửa sau lưng.

Theo sơ đồ của Olivia, nó đến hành lang chính và chạy thục mạng về phía cánh cửa nhỏ hình vòng cung, gần cổng vào. Cánh cửa trông xưa lắc xưa lơ này dường như đã bị khoá. Lòng Charlie chùng xuống. Nó vặn cái vòng sắt bự dùng làm nắm đấm cửa, tới lần thứ ba thì cánh cửa bật ngả về sau. Charlie bước vào một lối đi tối như hũ nút và cẩn thận chốt cửa lại sau lưng.

Charlie nhận ra mình bây giờ đang ở trong phần toà nhà ngay dưới phòng của Manfred. Nó bắt đầu đi nhón chân.

Hành lang đá tối tăm, dài hun hút, dẫn tới một căn phòng trống ở tầng trệt của tháp. Charlie trông thấy cánh cửa mà chắc hẳn Billy đã mở ra cho lũ mèo vô. Cánh cửa giờ đây được chốt chắc chắn. Đối diện cánh cửa này là một dãy cầu thang đá dẫn lên những tầng trên.

Charlie bắt đầu dò dẫm lên những bậc thang xoắn ốc, không có tay vịn hay dù chỉ một sợi dây thừng để bám vào. Cuối cùng, nó bước vô một căn phòng trống khác, có hai cửa sổ nhìn ra quảng trường. Nó chăm chú nhìn ra ngoài. Không thấy bóng dáng Fidelio đâu cả. Có lẽ tại nó chưa đủ cao để có được tầm nhìn tốt. Charile leo thêm dãy cầu thang thứ hai, nó không dừng lại ở tầng kế tiếp mà lẹ làng leo tiếp dãy cầu thang thứ ba. Từ đây nó có thể thấy toàn cảnh thành phố. Sáng hôm đó trời tươi sáng, lành lạnh, và phía xa xa, ngôi nhà thờ đồ sộ nhô hẳn lên khỏi lớp lớp mái nhà chung quanh nguy nga, tráng lệ; chóp tháp màu vàng óng của nó lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Thình lình, có hai cái bóng chạy băng qua vòi phun nước ở phía dưới và tới chân tháp thì dừng lại. Hai cái bóng đó vẫy tay. Vậy là Fidelio có dẫn Benjamin theo cùng.

Charlie vẫy tay đáp lại. Fidelio có giấu được cái thùng trót lọt không? Charlie giơ ngón tay cái bên phải ra ngoài cửa sổ và nhún vai. Rồi nó xoè hai bàn tay ra. Liệu bọn kia có hiểu nó hay không?

Rõ ràng là không. Fidelio và Benjamin bắt đầu hành động một cách rất kỳ dị. Benjamin kéo một sợi dây tưởng tượng, trong khi Fidelio để tay sau mông và lúc lắc tay giống như một cái đuôi. Charlie lắc đầu và nhún vai. Bọn chúng làm gì vậy? Hành động đó chẳng có ý nghĩa gì cả.

Cả hai thằng kia rõ ràng là đang rất hào hứng về một điều gì đó, nhưng Charlie muốn biết là cái thùng có an toàn không. Nó thử dùng hai bàn tay tạo ra đủ lọai hình, để minh hoạ cho câu hỏi: “Có an toàn không? Cái thùng ấy? Đâu rồi?”

Chẳng được cái tích gì. Benjamin và Fidelio hẳn đang có điều gì đó khác trong đầu. Cho dù điều đó là gì thì Charlie cũng phải đợi đến tối nay mới biết được. Nó vẫy tay thêm lần nữa và định chạy xuống cầu thang, thì chợt nghe có tiếng bước chân ở bên dưới. Nếu chạy qua cánh cửa vào hành lang rộng, thì nó sẽ bị lộ diện ngay bên ngoài phòng Manfred. Cách duy nhất để thoát thân là chạy tiếp lên trên.

Khi Charlie bắt đầu rón rén lên tầng bốn, có tiếng nhạc văng vẳng khắp khu vực cầu thang chật hẹp. Ai đó đang chơi đàn piano. Hay tuyệt. Đó là một giai điệu mê ly, vừa mạnh mẽ lại vừa réo rắt. Người nghệ sĩ này có vẻ làm chủ tất cả mọi cung bậc trên phím đàn.

Như thể có một sợi chỉ ma thuật kéo Charlie về phía âm thanh ấy. Nó không dừng lại ở tầng bốn, mà cứ vậy leo lên tiếp, bây giờ thì chậm lại và hơi sờ sợ, vì nhận ra mình không thể dừng lại được. Hơn nữa, nó sợ cái mà nó có thể nhìn thấy khi lên đến đỉnh tháp.

Căn phòng mà nó cuối cùng cũng bước vào không trống trải như những phòng kia. Phòng này chất đầy sách nhạc. Những chồng tập nhạc nằm dưới sàn. Các kệ sách đóng trên những bức tường xếp kín những cuốn sách giao hưởng đóng bìa da – chúng được xếp theo tên của các nhà soạn nhạc kiệt xuất: Mozart, Chopin, Beethoven, Bach, Liszt. Một số cái tên quen thuộc với Charlie, một số khác nó chưa bao giờ nghe nói đến.

Phía bên trong một cánh cửa nhỏ bằng gỗ sồi, một dòng suối nhạc piano trầm bổng vọng ra. Charlie sờ vào nắm đấm cửa. Nó xoay nắm đấm, mở cửa ra và cứ thế đứng ở ngưỡng cửa mà chằm chằm nhìn vô phòng. Trong phòng trống rỗng, ngoại trừ một cây đàn piano đen nhẫy, khổng lồ và người đàn ông ngồi phía sau: thầy Pilgrim. Ông thầy piano xa lạ nhìn thẳng vào Charlie; nhưng hình như ông không nhận ra là cửa mở, mặc dù gió lùa khiến một vài tờ báo bay khỏi bậu cửa sổ.

Charlie không biết phải làm gì. Nó cứ đứng ngây ra, như bị thôi miên, và rồi, cuối cùng, nó bước vô phòng và khép cửa lại sau lưng. Thầy Pilgrim vẫn mê mải dạo đàn ,hết nhìn xuống đôi tay mình lại thả hồn ra bầu trời bên ngoài cửa sổ, nét mặt thầy vô định, đôi mắt đen và sâu thăm thẳm.

Xa xa, tháp đồng hồ của ngôi nhà thờ lớn bắt đầu điểm giờ cho toàn thành phố. Một, hai, ba... lúc đó là 12 giờ, Charlie chợt nhớ ra. Nó sẽ trễ mất. Người ta sẽ thắc mắc không biết nó ở đâu. Không chừng chính Manfred sẽ đi tìm nó. Nó toan quay đi, thì bỗng nhiên, thầy Pilgrim ngừng chơi. Hình như thầy đang lắng nghe tiếng chuông đồng hồ. Đến tiếng gõ thứ mười hai thì thầy Pilgrim đứng dậy. Trông thấy Charlie đứng lớ xớ bên cánh cửa, thầy nhăn mặt.

“Con... con xin lỗi, thưa thầy, con bị lạc,” Charlie lập bập nói. “Tiếng đàn của thầy rất... à... hay quá.. thưa thầy, làm con chỉ muốn lắng nghe.”

“Cái gì?” thầy Pilgrim hỏi.

“Nhạc của thầy làm con chỉ muốn lắng nghe, thưa thầy.”

“Ờ.”

“Con xin lỗi vì đã tự tiện vô phòng thầy,” Charlie lí nhí. “Thưa, con đi đầy.”

“Đợi đã.” Người thấy xa lạ vòng qua cây đàn piano, bước về phía Charlie. “Con là ai?”

“Dạ, con là Charlie Bone.”

“Charlie sao?”

“Dạ phải.”

Charlie thấy một thoáng quan tâm nháng lên trong đôi mắt đen của thầy Pilgrim, rồi vụt tan. “Ra vậy,” thầy lẩm bẩm. “Con nên chạy đi thì hơn.”

“Vâng, thưa thầy.”

Trong chớp mắt, Charlie đã biến khỏi. Nó phóng qua cửa, lao xuống các bậc thang xoắn ốc với thời gian chỉ bằng một nửa lúc nó đi lên. Nó chạy được đến phòng Nhà Vua mà không gặp phải ai, ngoại trừ người gác cửa nhe răng cười và nháy mắt hết cỡ với nó khi nó chạy lẹ qua hành lang.

“Làm gì thế?” Olivia hỏi ngay khi Charlie hộc tốc vào phòng. “Manfred nãy giờ thò mặt vô đây hai lần, hỏi xem đằng ấy ở đâu!”

“Thế bồ nói gì với nó?” Charlie hỏi lại.

“Tớ nói như tụi mình đã nhất trí với nhau. Nói bồ ở trong nhà tắm.”

“Những hai lần cơ à?” Charlie lo lắng.

“Lần thứ hai em nói anh bị đau bụng,” Billy nói rành rọt, vẻ nghiêm trang. “Nhưng em không biết anh ấy có tin hay không.”

Vừa lúc đó, thầy Paltry-Kèn Sáo bước vô, thu lại sách và bảo bọn trẻ chuẩn bị đi ăn trưa.

Bữa trưa hôm ấy có bánh mì sandwich kẹp phó mát và một quả táo cho mỗi phần ăn. Các giáo viên trực trong ngày thứ Bảy ngồi ở dãy bàn cao, nhưng Manfred và giáo sư Bloor lại không xuất hiện.

“Vào cuối tuần họ dùng bữa ở chái phía tây toà nhà,” Billy giải thích, “cùng với bà Bloor và những người khác trong gia đình.”

Charlie kinh ngạc.

“Vậy ra còn nhiều người nhà Bloor nữa à?”

“Có một ông lão già, già khiếp,” Billy nói. “Em chưa bao giờ thấy ông ấy, nhưng con chó của bếp trưởng có nói về ông ấy cho em nghe.”

“Tớ cá là đằng ấy biết rất nhiều thứ từ con chó của bếp trưởng,” Olivia nhận xét.

“Đúng thế,” Billy công nhận.

Sau bữa trưa, bọn trẻ được phép ra vườn và Olivia cứ nhất mực rủ cả bọn đến gần khu đổ nát. Billy không hăm hở lắm, nhưng Charlie lại tò mò.

“Thôi nào, Billy,” Olivia động viên. “Tụi mình chỉ nhìn thôi mà. Tớ chưa bao giờ được chơi trò huỷ diệt cả.”

“Mình cũng chưa,” Charlie xen vào.

“Em cũng thế,” Billy càu nhàu, nhưng cũng miễn cưỡng theo chân hai đứa lớn ra chỗ những bức tường rêu phong, xỉn màu. Chúng cao ít nhất phải bốn mét, Charie nhẩm đoán, và dày chắc. Những viên đá lớn lồ lộ hiện ra khỏi những rặng cây, tựa hồ như ranh giới của một thành phố cổ xưa đã biến mất. Cổng vào là một mái rộng hình vòm, và bên trong cổng, mấy đứa có thể thấy một mảnh sân lát gạch, phủ đấy rêu, từ đó có năm lối nhỏ râm mát rẽ ra.

Charlie nghĩ đến cô bé bị biến mất và rùng mình. “Chuyện gì đang diễn ra ở đó vậy?” Nó lầm bầm.
Olivia đoán được những gì nó nghĩ:

“Tớ chắc chắn là sẽ không bao giờ chui vô đó một mình, dù chỉ một giây. Nó làm tớ sởn cả tóc gáy. Tớ cứ thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho con bé tội nghiệp kia. Người ta nói là áo chùng của nó bị xé thành từng mảnh.”

“Đó là một con sói,” Billy nói.

“Sói?” Charlie và Olivia nhìn nó chằm chằm.

“Con chó của bà bếp trưởng nói với em như vậy,” Billy cho biết. Nó không bao giờ nói dối đâu. Chó không nói dối bao giờ. Chính xác, nó nói con vật đó là một giống sói. Con sói đó vẫn sống trong trường này, nhưng ban đêm nó chạy ra ngoài khu đổ nát.”

Bất giác cả bọn ngóc cổ ngước nhìn lên bầu trời, những đám mây chìêu đang ùn ùn kéo tới.

Olivia thụt lùi lại một bước, rồi quay đầu chạy thục mạng qua bãi cỏ, miệng thét lên thảm thiết “Khôôôông! Khoôôông!”

Hai thằng con trai chạy theo sau, bật cười hịch hịch trước đôi chân trắng đang chạy trối chết và tiếng thét thất thanh, nghe thiệt tức cười của cô nàng, tuy Charlie thầm thú nhận là trong tiếng cười của chính nó có pha chút sợ hãi.

Chúng phóng bừa qua cửa vườn và đâm sầm vào Manfred.

“Olivia Vertigo, đi sắp xếp đồ đạc,” hắn lạnh lùng ra lệnh. “Bone, đi theo anh.”

“Tại sao?” Charlie hỏi, cúi gằm mặt xuống sàn nhà.

“Tại vì anh đã nói thế thì mày phải đi,” Manfred trịch thượng.

Charlie rất muốn chạy lên phòng chung cùng với Olivia. Chẳng còn lâu nữa, mẹ nó cũng sẽ đến cổng đón nó. Rõ ràng là Manfred sẽ không thể ngăn nó về nhà. Nhưng biết đâu, hắn cũng có thể làm việc đó lắm chứ.

Manfred quay đi và bật ngón tay tanh tách. Charlie nhe răng cười một cách căng thẳng với hai đứa bạn rồi đi theo thằng lớn kia.

“Chúc may mắn!” Olivia thì thầm.

Manfred dẫn đường đến phòng huynh trưởng. Hôm nay phòng vắng lặng và Manfred cho phép Charlie ngồi trên một trong mấy cái ghế dựa, trong khi hắn ngồi ở vị trí thường ngày của mình ở sau chiếc bàn giấy lớn.

“Đừng có đờ ra thế, Charlie!” Manfred cố giãn ra một nụ cười , nhưng xem ra nó không được giỏi trong chuyện này cho lắm. “Anh không có ăn thịt mày đâu.”

Charlie chả tin. Mắt nó vẫn ngó tịt xuống đất.

“Anh chỉ muốn biết mày giấu cái thùng, mà bà Ingledew đã đưa cho mày ở đâu. Nó là của bọn anh, mày biết mà.” Giọng Manfred nhẹ nhàng và đầy vẻ dụ dỗ, nhưng Charlie không bị mắc lừa.

“Tôi chả hiểu anh đang nói gì,” nó chối phắt.

“Đương nhiên là mày biết chứ, Charlie. Nó không có gì hay ho cho mày đâu. Thực ra nó chỉ đem phiền phức đến cho mày thôi. Nào, nói đi, nó đâu rồi?”

Charlie không trả lời, Manfred bắt đầu mất kiên nhẫn. “Nhìn tao đây, thằng kia!” nó quát lên.

Mắt Charlie vẫn dán chặt xuống đất.

“Mày nghĩ mày tiếp tục được như thế trong bao lâu nữa, hả?” Manfred chế nhạo. “Này, nhìn tao đây. Này, chỉ một cái nhìn thôi mà. Chả có đau đớn gì đâu.”

Charlie nhận ra ánh mắt mình đang từ từ bị hút về phía khuôn mặt nhợt nhạt của Manfred. Nó không thể cưỡng lại được. Nếu Manfred mà thôi miên được nó, thì mọi thứ sẽ tiêu tan. Nó biết mình sẽ phun ra cho thằng đó tất tần tật. Và sau đó, một ý nghĩ khác bật ra trong đầu nó. Rằng nó có thể chiến đấu với Manfred lắm chứ. Nếu nó đọc được nét mặt và lắng nghe được ý nghĩ của Manfred, thì có thể nó sẽ bẻ gãy được sự kiểm soát của thằng già kia.

Thế là, Charlie nhìn vào khuôn mặt mỏng dính, lạnh lẽo và đôi mắt đen như than đá, rồi cố nghe tiếng nói từ những ý nghĩ của Manfred. Nhưng không có giọng nói nào cả. Thay vào đó là một hình ảnh loang dần trong đầu Charlie, hình ảnh một người đàn ông đang chơi piano.

“Ngừng lại!” Manfred ra lệnh. “Ngừng việc đó lại, Bone!”

Nhưng Charile cứ bám chặt vào hình ảnh đó, và giờ đây nó có thể nghe được tiếng nhạc, sâu lắng, mượt mà và tuyệt đẹp.

“Ngừng lại!” Manfred rít rống lên.

Một ly nước bay vèo qua đầu Charlie và đập mạnh vào bức tường sau lưng nó, vỡ tan tành. Charlie nhảy khỏi chiếc ghế nó đang ngồi khi đến lượt một cuốn sách bự chảng bay vào nó. Thứ vũ khí tiếp theo Manfred vớ được để ném là cái chặn giấy bằng thuỷ tinh, nhưng trước khi hắn ném thì của bật mở, và giáo sư Bloor ngó vào.

“Chuyện gì thế này?” ông ta hỏi.

“Nó không đáp ứng,” Manfred rít lên. “Nó cứ ngăn con. Thằng này lại còn chơi được trò đấu trí nữa.”

“Thật thú vị,” giáo sư Bloor nói. “Rất thú vị. Con không nên roi vào trạng thái như vậy, Manfred à. Ta cảnh báo con đấy. Con phải kềm chế bản thân chứ.”

Charlie liếc nhanh lên tường. Cái ly vỡ nằm vắt lên thành chiếc ghế lúc nãy nó ngồi, và một vệt bẩn lớn, ướt nhèm nhẹp làm loang lổ tấm giấy dán tường màu hoa hồng.

“Charlie, mẹ trò đang chờ đó,” giáo sư Bloor tử tể nói với nó. “Đi sắp xếp đồ đạc ngay đi.”

“Vâng, thưa ông,” Charlie hăm hở trả lời. Nó ra khỏi phòng lẹ hết mức mà nó dám.

Billy đang chờ nó trong phòng ngủ chung. Thằng bé không ở đó một mình. Bên cạnh giường của nó, một con chó già nhất mà Charlie từng thấy đang nằm dưới sàn nhà. Con chó mập ù, và bộ mặt nâu, dài ngoẵng của nó nhúm nhíu lại, gấp nếp nhiều đến độ khó mà nhận ra mắt với mõm nằm ở đâu. Nó đang thở như kéo bễ - cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì chắc hẳn nó đã phải leo lên gần chục cái cầu thang từ nhà bếp tới đây. Cái mùi của nó nhắc Charlie nhớ đến mùi rau cải thối của mẹ.

“Nó được phép vô đây hả?” Charlie lo lắng hỏi.

“Không ai biết đâu,” Billy trấn an. “Em được ở một mình vào những ngày cuối tuần, ngay cả bà giám thị cũng về nhà vào thứ bảy.”

Charlie bắt đầu thảy đồ đạc vô túi, “Phải chi em có thể về nhà với anh,” nó buồn bã. “Ở đây vào ban đêm chắc chắn là kinh khủng lắm.”

“Em quen rồi,” Billy đáp. “Em đã có con May Phước để trò chuyện. Hôm nay tụi em có nhiều chuyện phải bàn với nhau.”

“May Phước?” Charlie nhìn sinh vật nhăn nhúm, béo núc ních dưới chân Billy.

“Cái tên đẹp chứ hả?” Billy hỏi.

Charlie không muốn tranh luận. Nó rất muốn xem Billy giao tiếp với chó như thế nào, nhưng nó không thể đợi được, phải về nhà thôi. Nó chào tạm biệt Billy và phóng như bay qua nhiều hành lang và cầu thang ra cổ

Chương 13
câu chuyện của nhà phát minh



Mẹ charlie đang ngồi trên một chiếc ghế lớn chạm trổ, ngay gần cánh cửa chính. Mới đầu Charlie chưa nhìn thấy mẹ, vì mẹ nó bị thân hình vạm vỡ của giáo sư Bloor che khuất. Ông ta đang nói chuyện với mẹ Charlie một cách nghiêm trọng, còn bà Amy trông cứ thấp thỏm như một nữ sinh vừa làm điều gì sai trái. Khi thấy Charlie, bà vẫy nhẹ nó một cái và mỉm cười một cách lo lắng.

Giáo sư Bloor quay người lại.

“A, cậu ấy đây rồi,” ông ta cố tỏ ra hồ hởi. “Ta đang thông báo cho mẹ con biết con đã học tốt như thế nào trong tuần lễ đầu tiên, ngoại trừ...ờ... phạm một tội nhẹ trong vụ áo chùng.”

“Thưa ông, đúng thế ạ” Charlie không biết sẽ phải giải thích với mẹ như thế nào đây về cái áo chùng bị xé rách. Thôi thì cứ giấu nhẹm đi, nó quyết định như thế.

Mẹ Charlie đứng lên, hôn vội lên má nó một cái và dắt nó đi thật nhanh ra cửa, không để ông Bloor kịp nói thêm tiếng nào nữa.

“Cuối tuần vui vẻ nhé,” giáo sư Bloor nói với theo, giả đò như không biết là đã cướp đi mất đứt hơn phân nửa kỳ cuối tuần của Charlie.

“Vâng, thưa ông,” Charlie đáp lời, cũng giả đò quên thêm vào tiếng cảm ơn.

Mẹ Charlie không đả động gì đến cái tội nhẹ của nó.

“Mẹ hy vọng con không ngán đi bộ chứ, Charlie. Trời chưa đủ tối nên Ông cậu Paton chưa ra ngoài được, mà mẹ thì không kiếm đủ tiền để đi taxi. Và vì con đã lỡ mất chuyến xe buýt của trường, nên...”

“Không sao đâu, mẹ.”

“Họ thật không phải chút nào. Ai lại phạt cấm túc con ngay tuần đầu tiên,” bà bức bối nói. “Mà thôi, quên vụ này đi, đúng không? Ngoại Maisie đã nấu tất cả những món con thích.”

Charlie cảm thấy đói ngấu.

Họ băng qua quảng trường có vòi phun nước, rồi đi vào một con hẻm dẫn ra Phố Lớn. Đúng lúc đi được nửa con phố, thì Charlie nhận ra bên kia đường có một lão già đang bám theo hai mẹ con nó.

Ngay lập tức, Charlie biết đó là ai. Màn cải trang thiệt là vô vọng. Quần áo trông chẳng hợp gì cả, bộ râu quai nón màu trắng trông biết ngay là râu giả, không “ăn” chút nào với mớ tóc đỏ rực lòi ra sau cái nón lưỡi trai cũ sờn.

“Mẹ, mình đi nhanh hơn được không, mẹ?” Charlie hỏi. “Có người bám theo mẹ con mình.”

“Bám theo?” Bà Amy đứng sựng lại và ngoái ra sau. “Ai đi theo chúng ta?”

“Có một thằng đấy mà,” Charlie nói với mẹ. “Nó ở bên kia đường. Lạ thật, vì nó biết nhà mình rồi mà. Hình như nó bám theo chỉ để hù cho mẹ con mình sợ thôi!”

“Nhanh lên, Charlie!” Bà Amy túm lấy cánh tay Charlie và kéo tuột nó vô một ngỏ hẻm khác. “Đường này đi sẽ lâu hơn, nhưng mẹ không thể chịu nổi chuyện bị theo dõi.”

Charlie nhớ ra, trước đây việc này đã từng diễn ra với mẹ nó. Ngay sau đám cưới, ba nó đã bắt đầu phải nơm nớp ngoái nhìn lại sau. Mẹ nó đã kể với họ như thế. Nhưng lúc đó ai đã đi theo họ?

Lúc này, mẹ Charlie đang làm một lộ trình vòng vèo qua những con hẻm nhỏ, hoàn toàn lạ lẫm đối với Charlie.

“Lâu lắm rồi mẹ mới đi đường này, nhưng nó không thay đổi nhiều lắm. A, đây rồi!” Khi bà thốt ra câu này thì hai mẹ con đã đâm ra quảng trường nhỏ trước mặt nhà thờ.

“Ôi!” bà sửng sốt, áp tay lên ngực, như thể cảnh tượng tòa nhà khổng lồ đã làm bà nghẹt thở. “Ba con xưa vẫn hay chơi đàn organ ở đây,” bà thì thầm. “Nhưng mẹ đã không quay trở lại nơi này từ khi... từ khi... ba con ngừng chơi.”

Bà Amy rảo bước nhanh hơn, như không thể chịu đựng thêm được nữa, và tất nhiên, hai mẹ con đều nhận ra mình đang đi ngang qua tiệm sách của cô Ingledew.

“Con biết cái cô sống ở đây,” Charlie dừng lại để dòm qua cửa sổ. “Mình vào nha mẹ?”

“Đóng cửa rồi mà,” mẹ nó nói nhanh. “Con nhìn tấm bảng này.” Và sau đó, khi họ vội vàng đi tiếp, bà nói thêm, “Tối qua Ông cậu Paton đã tới đây. Lúc về Ông cậu đem theo một túi đầy sách. Gần đây không biết có điều gì mà khiến Ông cậu của con thay đổi đột ngột. Chẳng còn giống Ông cậu chút nào hết.”

Phải chăng cuối cùng thì Ông cậu Paton đã ngẩng đầu lên?

Ngoại Maise đã trông thấy hai mẹ con từ xa, trước khi họ leo lên những bậc tam cấp của căn nhà số 9. Khi Charlie bước qua cửa nhà bếp thì ấm nước đang sôi, và một bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn trên bàn.

“Họ đâu có quyền giữ cháu cách xa chúng ta thêm cả một ngày như vậy,” ngoại Maise kêu lên, ôm chầm lấy Charlie, ghì nó đến nghẹt thở.

“Tại nó vi phạm nội qui,” một tiếng nói phát ra từ chiếc ghế xích đu cạnh lò sưởi. “Nó cần phải học mà hiểu nội qui.” Nội Bone nhăn mặt nhìn Charlie. “Gớm, coi tóc với tai kìa! Mày không đem lược đến trường à?”

“Dạ, có chứ,” Charlie thanh minh, “nhưng giám thị không nói gì về chuyện tóc tai của tụi con. Nội biết con nói tới giám thị là có ý muốn nhắc tới ai chớ!”

“Tất nhiên là Lucretia,” nội Bone cáu kỉnh.

Đây quả là một bất ngờ lớn cho ngoại Maisie và bà Amy, hai người há hốc miệng ra nhìn nội Bone.

“Sao mẹ không cho chúng tôi biết?” Mẹ Charlie la lên.

“Mắc gì ta phải nói,” bà già khụt khịt. Đoạn bà quay trở lại với quyển sách đang đọc dở, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.

“Chà,” ngoại Maisie lên tiếng. “Có người lại khệnh khạng thế đấy!”

Nội Bon giả ngơ luôn lời nhận xét này, cũng như làm ngơ luôn bữa trà thân mật mà các thành viên khác trong nhà (từ Ông cậu Paton, dĩ nhiên) sắp ngồi xuống dùng.

Charlie nặn óc nghĩ ra cách để hỏi thăm Ông cậu, nhưng nội Bone trông băng giá đến nỗi nó quyết định thôi luôn. Nó không muốn làm nổ thêm cuộc tranh cãi nào nữa, mà chỉ muốn ních đầy các món khoái khẩu rồi mau mau đi gặp Benjamin.

“Đi đâu đó, hả?” Nội Bone hỏi sau bữa trà, khi Charlie đi ra cửa trước.

“Dĩ nhiên là nó đi gặp bạn nó,” ngoại Maisie trả lời thay.

“Chi vậy?” nội Bone chất vấn. “Nó có bổn phận ở nhà với gia đình vào cuối tuần.”

“Đừng ngây ngô như thế chứ, bà Grizelda,” ngoại Maisie sực lại. “Cháu cứ đi đi, Charlie.”

Charlie vọt bắn ra cửa, trước khi nội Bone kịp mở miệng thêm câu nào nữa. Nó chạy băng qua đường, tới nhà số 12, và ở đó, không những nó được gặp Benjamin mà còn có cả Fidelio. Trông hai đứa có vẻ rất hào hứng. Chúng lập tức lôi ngay Charlie vô bếp, nơi những mẩu pizza, khoai tây chiên, chuối và bánh quy thừa còn vung vãi trên bàn. Con Hạt Đậu đang say mê thưởng thức những miếng đồ ăn rới xuống sàn, nhưng ngay khi Charlie đi vô, nó liền nhặng xị cả lên: nhảy chồm chồm, thè cái lưỡi cực kỳ nhớp nháp liếm lấy liếm để lên mặt Charlie.

Charlie cố dứt ra khỏi con Hạt Đậu, trong khi Benjamin bắt đầu thuật lại những gì đã xảy ra. Có vẻ như tụi nó đã phát hiện được một điều gì đó vô cùng hệ trọng.

“Chính Fidelio,” Benjamin nói. “Bồ biết không, cái giọng nói trong con chó máy bồ tặng mình đó... ờ... anh Fidelio bảo nếu tụi mình cho cái băng chạy tới thì có lẽ sẽ có thêm gì đó nữa. Và đúng là có thêm thật.”

“Vậy hóa ra sáng nay hai người muốn diễn tả điều đó cho mình hả?” Charlie gật gù. Trò hề lạ lùng của lũ bạn nó bỗng nhiên đã có ý nghĩa. “Hai người làm điệu bộ như kéo cái đuôi chó vậy...”

“Thế lúc ấy em không hiểu hả?” Fidelio cười toe toét. “Ngồi xuống đi, Charlie, và nghe câu chuyện giật gân đây!”

Charlie nhận thấy lũ bạn đã tìm cách kéo được cái thùng của tiến sĩ Tolly ra khỏi tầng hầm rồi. Nó kéo ghế ra và ngồi vô b àn. Đứng giữa mặt bàn là con chó kim loại, bao quanh là bìa cứng và vụn bánh.

“Nghe đây,” Fidelio dõng dạc. Nó giật đuôi con chó, và ngay khi giọng nói quen thuộc của tiến sĩ Tolly bắt đầu đưa ra lời hướng dẫn, Fidelio nhấn tai trái con chó cho cuộn băng chạy tới.

“Rồi,” nó cao giọng. “Tới rồi đó.”

Tiến sĩ Tolly nói trở lại, lần này giọng ông nghe khác hẳn, khẩn thiết và sầu thảm hơn. Charlie xích ghế lại.

Julia thương mến, giọng nói bắt đầu, nếu nghe được những lời này thì chị sẽ khám phá ra bí mật về đứa con yêu dấu của tôi; đứa bé trước đây là Emma Tolly, nhưng giờ đây nó đã mang một cái tên khác. Tôi hy vọng chị đã tìm ra một nơi an toàn để giấu cái thùng đề Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly. Tôi không thể gửi chìa khóa hay lời hướng dẫn cách mở nó cho chị được, vì tôi không tin tưởng ai, Julia à. Họ nghe trọm ngoài cửa phòng tôi, ăn cắp thư từ của tôi, và đến lúc chị nghe được lời nhắn này thì chúng đã đánh cắp cuộc đời tôi. Tôi biết rõ lắm. Tôi đã yếu sức lắm rồi. Tôi không thể ra khỏi giường. Những kẻ thù của tôi đã đầu độc tôi, Julia, và đây chính là hình phạt cho những gì tôi đã làm với con mình.

Và thế là, giờ đây, tôi sẽ kể cho chị biết sự việc đó đã xảy ra như thế nào, tôi đã rơi vào tình thế trớ trêu này sao. Như chị biết đấy, tôi đã quyết định trao bé Emma cho người khác. Chính lòng tham đã thúc giục tôi. Thức chúng trao cho tôi để lấy con của gái tôi là một thách thức gây hứng thú nhất trong đời tôi. Chúng đưa cho tôi một bản sao rất hoàn hảo tổ tiên của tôi, hiệp sĩ từ Toledo với thanh gươm sắc bén nhất trần đời. Tôi sẽ phải biến bản sao đó thành người thật – tôi mới ngạo mạn làm sao khi tin rằng mình có thể làm được điều đó. Tôi đã làm việc cật lực trong 5 năm. Không thành công. Tôi chỉ là một nhà khoa học, chứ không phải là một phù thủy. Khi Emma lên 7 tuổi, tôi yêu cầu họ trả con lại. Họ từ chối, với lý do là tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Đúng lúc này, Benjamin bỗng hắt xì một cái, cắt ngang thứ bùa mê mà giọng nói đầy thuyết phục của tiến sĩ Tolly đang truyền qua lũ trẻ.

“Chà chà, thú vị thật,” Charlie tấm tắc. “Nhưng cũng chẳng giúp cho tụi mình biết được gì nhiều.”

“Chi tiết đầu độc thú vị đấy chứ,” Benjamin nói.

“Nghe đi,” Fidelio yêu cầu chúng. Nó tạm dừng cuộn băng lại. “Phần kế tiếp là phần hay nhất. Tất cả mọi việc đều diễn ra ở đó.”

Benjamin và Charlie im bặt, đầy ý thức trách nhiệm, trong khi Fidelio bật lại cuộn băng. Một lần nữa, giọng nói trầm sâu của tiến sĩ Tolly lại vang lên từ con chó máy.

Julia, chúng hữa là tôi sẽ được gặp và thăm con. Tôi nghĩ đó sẽ là một cuộc sống tốt cho Emma bé nhỏ, được bảo bọc trong một gia đình chan chứa tình yêu thương – có cha mẹ, có anh – thay vì phải sống với tôi, một gã hay gắt gỏng, đãng trí. Họ nói họ sẽ cho con tôi biết sự thật nó là ai, để một ngày kia, con bé có thể chọn trở về với tôi hoặc đến sống với chị, Julia à. Đó là hy vọng của tôi. Đó là trước khi tôi biết những gì Manfred có thể làm...

Charlie ngó Fidelio, đang trợn tròn mắt. Benjamin thì thầm “Phải đó là..?”

“Suỵt!” Fidelio ra hiệu.

...Tôi nhớ rõ ngày hôm ấy, tiến sĩ Tolly tiếp. Chị còn nhớ chứ, trước tiên tôi đến tiệm sách của chị, và mặc cho Emma một chiếc váy trắng và thắt ruy băng lên tóc cho con bé. Nhưng chị không đi tới quảng trường trước nhà thờ cùng với cha con tôi. Giá mà lúc ấy chị cũng đến đó.

Ở đó có bốn người – Bloor, vợ và con trai ông ta, và một lão già. Thằng bé lúc ấy khoảng 8 tuổi. Chúng đặt cái thùng dưới chân tôi và, đúng là trong thùng có một bức tượng; sau đó, tôi nâng con gái bé bỏng của mình lên và lão già chìa tay ra.

Đúng giây phút đó thì sự việc xảy ra, Julia ạ. Đó là khi tất cả mọi thức bắt đầu đi chệch lối. Khi chiếc đồng hồ to trên đầu chúng tôi bắt đầu điểm giờ, thì một người đàn ông từ trong nhà thờ chạy bổ ra. Tôi nhận ra anh ta ngay lập tức. Đó là người đánh đàn organ trẻ tuổi cho nhà thờ. Trong khi ca đoàn vẫn đang hát, thì anh ta chạy về phía chúng tôi. Anh ta giơ tay lên và la lớn. “Ngừng lại! Các người không được làm thế!”

Khi anh ta xông tới chặn trước mặt tôi, thì lão già liền đấm một đấm vô mặt anh ta. Người nhạc công trẻ đánh trả lại và lão già ngã xuống, đập đầu xuống nền đá. Lão ta thét lên đau đớn. Liền đó, tôi nhận thấy Manfred nhìn trừng trừng người đàn ông kia, đôi mắt nó trông như hai hòn than đen ngòm. Anh nhạc công lập tức đưa tay ôm mặt và quỵ xuống.

Lúc ấy Emma khóc thét lên vì khiếp sợ, nhưng Manfred quay đôi mắt khủng khiếp ấy về phía tôi, và tôi thấy mình đặt đứa con đang gào khó của mình vô tay nó. Khi đồng hồ nhà thờ gõ mười hai giờ, nó nhìn con bé và con bé nín khóc ngay lập tức. Con bé dường như sợ đến chết trân.

Tôi là một kẻ hèn nhát, Julia ơi. Lúc đó tôi đã làm một việc tồi tệ hết sức. Tôi đã bỏ chạy. Tôi xách cái thùng lên và chạy trốn vô những ngõ hẻm, như thể đang bị ma quỷ của địa ngục đuổi theo sau lưng.

Sau này, tôi mới khám phá ra là chúng đã gửi Emma cho một gia đình khác. Chúng nhất định không nói cho tôi biết là ở đâu. Lão giờ bị tàn tật suốt đời sau cú ngã kia. Còn anh nhạc công trẻ tuổi kia thì tôi không bao giờ nhìn thấy nữa. Tôi hiểu rằng cả anh ta và bé Emma của tôi đều ở trong tình trạng còn tồi tệ hơn bị thôi miên. Họ sẽ bị yểm bùa suốt đời, nếu tôi không tìm được cách giải bùa cho họ. Và vì thế, tôi lạc đi tìm cách. Trong cái thùng ghi Mười Hai Tiếng Chuông của Tolly có một âm thanh có thể đánh thức bé Emma tỉnh lại. Gia đình Bloor biết được điều tôi đang làm, và tất nhiên, họ muốn phá hủy sáng chế của tôi. Nếu cô ấn lên các mẫu tự, từng chữ từng chữ một, ấn mạnh và cẩn thận, thì cái thùng sẽ mở ra...


“Vậy ra đó là cách mở cái thùng,” Charlie nói.

“Khoan!” Fidelio giơ tay lên. “Nghe cái này đi đã!”

...Suýt nữa thì tôi quên, giọng tiến sĩ Tolly lại cất lên. Tại sao chúng lại muốn con của tôi? Bọn tôi, giáo sư Bloor và tôi, cùng là sinh viên với nhau. Việc tôi thổ lộ những bí mật riêng tư của mình với người bạn cũ là lẽ tự nhiên. Tất nhiên, tôi không thể nói cho ai khác. Rằng Emma biết bay. Việc chỉ mới xảy ra một lần khi bé được vài tháng tuổi. Nhưng biết đâu đấy...?

Hãy bảo trọng, Julia. Đoạn ghi âm này đã hết. Người bưu tá đang ở ngoài cửa. Vĩnh biệt chị.

“Mấy bồ nghĩ thế nào?” Fidelio hỏi. “Một câu chuyện hay chứ hả? Tưởng tượng coi! Con bé đó, dù nó là ai đi chăng nữa, thì tuyệt nhất là nó biết bay.

“ Mình nghĩ đó là Emilia Moon,” Charlie thì thào. “Và người đánh organ...”

“Người đánh organ thì sao?” Fidelio hấp tấp hỏi.

“Không sao cả,” Charlie đáp.

Người đánh organ đó có thể chính là ba nó, nhưng bây giờ làm sao chúng có thể tìm được ông? Ông đang lưu lạc ở đâu, ai mà biết được. Trước tiên, bọn nó phải làm Emma Tolly tỉnh lại đã, và rồi, có lẽ một ngày nào đó sẽ đánh thức tới ba nó.

Fidelio hăng hái vạch kế hoạch hành động càng sớm càng tốt. “Tụi mình phải đem cái thùng ra khỏi đây vào tối nay,” nó nói. “Bây giờ thì đã biết công dụng của nó rồi.”

“Asa lại theo đuôi mình,” Charlie thông báo. “Thế nào nó cũng theo dõi từng bước đi của tụi mình.”

“Lo gì,” Fidelio trấn an. Nó chỉ cho Charlie xem cái thùng khổng lồ đựng cây mộc cầm mà nó đã xách theo.

“Ba anh nói sẽ tới đây đón anh bằng xe hơi. Nếu bây giờ em và Benjamin ra đi bộ loanh quanh khu này thì Asa có thể sẽ theo đuôi hai em. Khoảng 10 phút nữa ba anh sẽ tới, lúc đó thì Asa sẽ không còn lẩn quẩn ở đây mà thấy được anh đem thùng đựng đàn mộc ra xe. Nếu có, thì nó cũng chỉ nghĩ là một loại nhạc cụ.”

Cả bọn nhất trí đây là một kế hoạch tuyệt vời. Bọn chúng nhất cái thùng của tiến sĩ Tolly, bỏ vô thùng đựng đàn mộc trống không, rồi Charlie và Benjamin lên đường ra công viên. Đến lúc này trời đã xẩm tối, nhưng với con Hạt Đậu bị cột dây đi bên cạnh, chúng cảm thấy rất an toàn. Chẳng bao lâu, chúng đã nhận ra cái bóng hóa trang cực kỳ kệch cỡm của Asa, ở bên kia đường, đang lén lút nhảy lóc cóc từ gốc cây này qua gốc cây kia, nhưng chúng cố không lộ ra là đã nhìn thấy thằng này.

Sau hai mươi phút đi loanh quanh, Charlie và Benjamin trở lại nhà số 12 đường Filbert. Fidelio và cái thùng to tướng đã biến mất.

“Thế là xong rồi!” Bejamin sung sướng reo lên.

“Tuyệt vời, Fidelio lão luyện của chúng ta,” Charlie mừng rỡ. “Mình phải về nhà đây. Ngày mai gặp lại nha.”

“Tụi mình đem theo cuốn băng cho cô Ingledew chứ?”

“Ý hay đó,” Charlie tán thành.

Nó băng qua đường, chạy về nhà, háo hức muốn kể ngay cho Ông cậu Paton những gì đã xảy ra. Ông cậu đang đứng một mình, có vẻ rất nhàn hạ, trong hành lang, nhưng xem ra không ở trong tâm trạng để nghe chuyện bí mật. Ông cậu sắp sửa ra phố. Ông mặc một bộ com lê cực kỳ lịch lãm, và thật kinh ngạc, có thắt thêm một chiếc nơ bướm màu tía. Tóc Ông cậu đã được hớt ngắn, mặt Ông cậu sáng sủa và vừa mới cạo nhẵn. Người Ông cậu tỏa ra mùi thơm nồng, thay cho mùi hỗn hợp của mực và báo cũ như mọi khi.

“Chao ôi,” Charlie vồn vã. “Ông cậu Paton sắp đi đâu vậy?”

Ông cậu có vẻ bối rối. “Mày nhờ ta lấy chìa khóa cho mày ở chỗ cô Ingledew mà.”

“Bây giờ không cần nó nữa đâu,” Charlie thì thầm.

Ông cậu Paton không để ý đến điều đó. “Ta...hụ hụ...” Ông cậu tằng hắng. “Ta đến đón cô Ingledew đi ăn tối.”

“Thế à!”

Đây đúng là tin sốt dẻo. Theo Charlie nhớ thì Ông cậu Paton chưa từng đưa ai đi ăn tối bao giờ.

Ông cậu hạ giọng và ghé sát người xuống Charlie, nói “Bà Bone sẽ không vui vì chuyện này đâu.”

“Dĩ nhiên,” Charlie nói, miệng cười toe toét.

Ông cậu Paton vỗ nhẹ lên vai nó, nháy mắt rồi đi khỏi. Đêm ấy trời đen như mực.

Charlie cảm thấy mừng vô kể cho Ông cậu. Nó thầm chúc ông may mắn và có một buổi tối an bình.

Nội Bone đóng cửa giam mình trong phòng, vì thế bầu không khí trong bếp thật dễ chịu và yên tinãh. Ngoại Maisie và mẹ Charlie đang đọc tạp chí. Cả hai ngước nhìn khi Charlie đi vô, hăm hở muốn nghe tất cả mọi chuyện của tuần đầu tiên ở trường mới. Charlie kể cho họ nghe những chuyện thú vị, buồn cười. Nó bỏ qua chuyện Gabriel Silk và lời quả quyết kỳ lạ của thàng này rằng ba nó vẫn chưa chết. Nó cũng lược bỏ phần chiếc áo chùng. Sau này chắc chắn nó sẽ phải tìm lời giải thích cho chuyện đó.

Charlie được phép thức khuya hơn thường lệ. Không có nội Bone quanh quẩn một bên, không ai bắt nó phải đi ngủ sớm hơn cả. Hơn nữa, ngày hôm sau là chủ nhật và mẹ nó đã đảm bảo rằng nó có thể nướng trên giường bao lâu tùy thích. Nhưng sau một hồi lâu thì mắt Charlie bắt đầu nhíu lại, nó ngáp trẹo quai hàm và đành phải thú nhận là có nguy cơ ngủ gật. Nó hôn ngoại Maisie và mẹ, chúc hai người ngủ ngon, rồi đi về giường.

Charlie không biết mình đã ngủ được bao lâu thì có một chuyện lạ diễn ra. Có tiếng bước chân chậm chậm ngoài cửa phòng nó. Đi tới đi lui. Đi lui đi tới. Cầu thang run lên kọt kẹt và có bóng người đi qua hành lang. Dù đang mệt rã rời, Charlie cũng ráng tuột khỏi giường và kiễng chân đi xuống cầu thang.

Ông cậu Paton đang ngồi ở bàn bếp. Trên bàn, một cây đèn cầy cháy chập chờn, leo lét. Ông cậu đã lột áo khoác và cà vạt quăng xuống đất, vùi mặt vào hai cánh tay khoanh vòng lại.

“Ông cậu Paton, có chuyện gì vậy?” Charlie khẽ hỏi. “Chuyện gì vậy ạ?”

Ông cậu không trả lời, chỉ rên rỉ. Charlie kéo ghế ra ngồi đối diện với ông, chờ ông bình tĩnh lại, lòng thắc mắc không hiểu Ông cậu gặp chuyện gì ghê gớm vậy.

Cuối cùng, Ông cậu Paton cũng ngẩng đầu lên và than thở “Charlie, tiêu hết rồi.”

“Gì cơ ạ” Charlie gặng hỏi.

“Ta đã không nhịn được,” Ông cậu Paton trầm ngâm. “Sự việc cứ thế xảy ra. Người bạn của ta, cô Ingledew ấy, trông thật quyến rũ. Cô mặc áo đầm đen, tóc búi cao, cố trắng như cổ thiên nga... Ôi, ta đã bị chinh phục mất rồi.”

“Đương nhiên là thế rồi ạ,” Charlie đồng tình.

“Ta đã cố nhìn cho đến lúc dùng bánh pudding.”

“Đúng thôi, ngon quá mà!”

“Không, không phải vậy,” Ông cậu Paton rên rỉ, “Mặc dù ta có thấy là món nào cô ấy cũng thích.”
“Ông cậu và cô ấy ăn gì vậy?”

“Sò. Rau trộn Caesar. Vịt quay và bánh pudding phủ kem với trái cây.”

“Ngon quá đi mất,” Charlie reo lên. Nó chẳng biết những món đó ra sao, ngoại trừ món vịt.

“Nhưng rượu đã bốc lên đầu ta, và ta quá say, quá sung sướng” Ông cậu Paton thở dài sườn sượt. “Có một ngọn nến trên bàn của bọn ta, như thế cũng không hề chi, nhưng ở đằng sau Julia, trên vách tường, có một bón đèn tỏa ánh sáng đỏ dìu dịu... và ... bụp... bóng đèn bể. Miểng thủy tinh văng tứ táng. Vương khắp trên tóc, trên chiếc áo đầm đen dễ thương của cô ấy. Ta nhảy lên, thêm một bóng đèn ở bàn kế bên vỡ tan. Thử hình dung đến tình cảnh khốn khổ của ta mà xem.”

Nhưng người ta không hề biết đó là do Ông cậu,” Charlie an ủi.

“À, đó chính là lúc ta tự biến mình thành một thằng khùng. ‘Xin lỗi, xin lỗi’, ta đã rối rít kêu lên, và một cái bóng đèn nữa vỡ tan. Rồi thêm một cái nữa, ta lao ra ngoài, miệng vẫn lảm nhảm xin lỗi. Ta quá mắc cỡ. Ta không thể ở lại đó được, tất cả bóng đèn trong nhà hàng chắc sẽ nổ tung mất thôi.”

“Ông cậu đừng bận tâm làm gì,” Charlie vỗ về. “Thể nào Ông cậu cũng sẽ nghĩ ra một lời giải thích với cô Ingledew thôi mà.”

“Nhưng, Charlie à, ta chưa thanh toán hóa đơn!” Ông cậu Paton rên lên. “Thử tưởng tượng coi ấy sẽ phẫn nộ như thế nào. Cô ấy nghĩ ta là kẻ hèn nhát, chỉ vì sợ mấy cái bóng đèn nổ mà bỏ mặc cho cô ấy trả tiền.”

“Ông cậu chỉ cần nói cho cô ấy biết sự thật,” Charlie nói.

“Khôôông!” Ông cậu Paton rền rĩ như sấm một cách tuyệt vọng. “Chúng ta bị đày đọa. Ta và mày. Bị đày đọa trong sự khác người, trong nỗi ám ảnh khủng khiếp của gia đình chúng ta.”

“Không phải vậy đâu,” Charlie phản đối kịch liệt. “Ông cậu hãy bình tĩnh lại nào! Con có điều quan trọng muốn nói với Ông cậu, và con thực sự muốn Ông cậu tập trung.”

Ông cậu Paton lại gục đầu xuống cánh tay đang khoanh lại, và lần này dường như ông không buồn động đậy nữa. Thế nên Charlie bắt đầu kể lại tất cả những gì mà tiến sĩ Tolly đã nói trong băng. Cuối cùng thì Ông cậu Paton cũng ngẩn đầu lên, và lần này thì hết sức chăm chú.

“Ôi trời, Lyell” Ông cậu Paton thốt lên khi Charlie kể tới đoạn người chơi đàn organ.

“Đó là ba của con, phải không?”

“Chắc chắn rồi,” Ông cậu Paton khẳng định. “Kể tiếp đi, Charlie”

Khi Charlie kết thúc câu chuyện kỳ lạ của tiến sĩ Tolly, thì Ông cậu Paton đã trở nên hoạt bát hơn.

Nhóc à, tất cả vụ này thật hết sức, hết sức lạ lùng, không thể diễn tả thành lời nổi. Và bi đát nữa, bi đát quá đi. Đứa trẻ tội nghiệp đó. Và ba của mày... Trời ơi, giá mà ta có thể ngăn chặn được điều đó. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, ta nghĩ ằng, trong lúc cố cứu đứa bé thì số mệnh của ba mày đã được định đoạt.”

“Nhưng, Ông cậu Paton ơi, ba con vẫn còn sống,” Charlie tiết lộ.

“Cái gì? Không, ta rất tiếc, Charlie à, mày sai rồi.”

Charlie kể với Ông cậu về Gabriel Silk về cái áo chùng xnah và chiếc cà vạt của ba nó. “Con thấy nó chẳng có lý do gì để nói dối con cả,” Charlie bảo. “Ông cậu thử tới gặp nó coi, Ông cậu Paton nó có khả năng đó mà. Cũng y như con có tài nghe được tiếng nói của và Manfred có tài thôi miên...và như... như ông có thể làm nổ bóng đèn vậy.”

HD
HD
Mem có nhiều đóng góp
Mem có nhiều đóng góp

Tổng số bài gửi : 268
Thành tích : 241647
Điểm cộng từ admin : 64
Join date : 11/02/2011
Age : 28
Đến từ : Sai Gon

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết