D-Crew


Join the forum, it's quick and easy

D-Crew
D-Crew
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Latest topics
» Detective Conan - file 770
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 5:31 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 769
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 5:25 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 768
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 5:17 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 767
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 5:11 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 766
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 5:01 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 765
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 4:52 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 764
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 4:46 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 763
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 4:42 pm by 6-24-18-6-2

» Detective Conan - file 762
[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) EmptySun Jan 08, 2012 4:40 pm by 6-24-18-6-2

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     

Calendar Calendar


[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8)

Go down

[Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8) Empty [Jenny Nimmo] Charlie Bone - Tập 1: Charlie Bone lúc nửa đêm(8)

Bài gửi by HD Sat Feb 12, 2011 3:59 pm

Mặt nội Bone trắng bệch. “Mày nói gì vậy?” bà thét lên. “Tất nhiên ba mày chết rồi.”

“Không phải. Ba con chưa chết. Một ngày nào đó con sẽ tìm thấy ba.”

“Đấy là những gì Ông cậu mày mớm cho mày đó phải không?” bà cô Lucretia gặng hỏi. “Paton bị điên, mày biết đấy, điên thật sự. Gã chẳng biết mình đang nói gì hết. Mày cấm không được liên hệ với gã nữa.”

“Hứa đi,” bà cô Eưstacia gằn giọng.

“Không,” Charlie cương quyết.

Nội Bone giộng nắm tay xuống bàn. Theo sau đó là những phút giây im lặng chết người. Charlie nghĩ đây là lúc nó nên đi. Nó đẩy ghế ra sau và đứng dậy.

“Chờ đó!” bà cô Venetia hét lên. “Ta có một món quà cho con, Charlie.” Bà ta cúi xuống và lôi một thứ gì đó ra khỏi cái túi to bên hông.

“Đây!”

Một gói giấy màu nâu trượt trên mặt bàn bóng láng. Charlie thao lái nhìn cái gói.

“Cái gì vậy?” nó hỏi.

“Mở ra đi!” bà cô Venetia nháy mắt với nó.

Charlie nuốt nước miếng. Chắc là thứ gì đó gớm ghiếc đây. Nó kéo dây và gói giấy bung ra, để lộ một chiếc áo chùng xanh da trời được gấp lại.

“Một chiếc áo chùng,” Charlie nói. “Nhưng con đã có một cái rồi.”

“Nó rách thê thảm,” nội Bone nói. “Giáo sư Bloor nói mày cần phải có một cái mới, và bà cô Venetia đã tử tế may cho mày đấy.”

“Cô ấy khéo tay lắm,” bà cô Lucretia khen.

Bà cô Lucretia khen.

Bà cô Venetia cười khoái chí đến nỗi Charlie thấy cả miếng son môi dính trên răng bà.

“Con cám ơn,” nó ngập ngừng.

“Không có chi,” Bà cô Venetia ra hiệu cho nó đi. “Bây giờ con đi được rồi đó, Charlie.”

Charlie đi khỏi, tay nắm chặt chiếc áo chùng mới. Nó chạy lên lầu và thấy chiếc áo chùng xanh nát cũ của nó đã biến khỏi tủ âm tường. Nó dòm kỹ món quà của bà cô Venetia, nhưng tịnh không thấy có gì bất ổn hay khác thường cả.

Charlie nói với mẹ về chiếc áo chùng khi mẹ nó giúp nó thu xếp đồ đạc.

“Bà cô Venetia thật tử tế,” mẹ nó thận trọng nói, “nhưng như thế chẳng giống bà ấy chút nào. Mẹ chưa từng thấy bà ấy tặng quà cho ai bao giờ, kể cả dịp Giáng sinh.”

“Có lẽ họ không muốn xấu hổ vì con,” Charlie nói, “vì bà Lucretia là bảo mẫu trong học viện mà.”

“Chắc là vậy,” mẹ nó gật gù. “Yewbeam là một dòng họ kiêu hãnh.”

Nhưng Charlie vẫn không thể không thắc mắc.

Chương 20
trong khu vườn đổ nát


Khi Charlie đến Học viện sáng hôm sau, nó để ý thấy có tiếng huyên náo, đầy hào hứng trong hành làng chính. Bọn trẻ thật khó mà giữ được im lặng, chúng cứ huých khuỷu tay vào nhau, và chỉ trỏ cái bàn dài được kê dựa vô một trong những bức tường ốp ván. Trên bàn chất đầy đèn lồng bằng thủy tinh.

“Tối nay có trò chơi trong khu vườn hoang đó,” Fidelio loan báo với Charlie. Chúng đã vô phòng để áo khoác chật ních lũ trẻ đang đấu láo.

“Có chuyện gì vậy?” Charlie hỏi, nghĩ đến cô nữ sinh không bao giờ trở ra. “Em không biết cách chơi.”

“Đây không hẳn là trò chơi,” Fidelio nói. “Mà giống một cuộc đi săn hơn. Có một chiếc huy chương được giấu ở trung tâm của khu vườn hoang. Người thắng cuộc phải tìm ra chiếc huy chương đó, và phải ra khỏi khu vườn hoang trước khi hết một tiếng đồng hồ. Mỗi khoa sẽ tuần tự tìm kiếm. Tối nay là khoa kịch, ngày mai là khoa hội họa và thứ tư là đến tụi mình. Không dễ đâu. Năm ngoái chẳng ai tìm được huy chương, còn năm kia thì có người tìm thấy, nhưng phải mất ba giờ đồng hồ mới ra được, thế nên không tính.”

“Có đáng phải làm vậy không?” Charlie cau mày. “Chỉ là cái huy chương thôi mà.”

“Người thắng cuộc sẽ không bị cấm túc trong một năm – trừ phi họ làm điều gì đó hết sức tệ hại. Họ còn được tặng ngày nghỉ, và được phát miễn phí các món như nhạc cụ mới, hộp màu vẽ, hay quần áo hóa trang. Ngoài ra việc đó sẽ khiến người ta cảm thấy hãnh diện.”

“Ô,” Charlie có cảm giác chơi vơi. Nó tự nhủ mình thật ngớ ngẩn. Sẽ có một trăm đứa trẻ trong khu đổ nát. Làm sao mà lạc được nào? Tuy nhiên, đã có người biếm mất trong đó. Và ai đó có thể biến thành một con thú man rợ và đi vô đó để tìm mồi.

“Đừng có u ám như thế chứ, Charlie,” Fidelio trấn an. “Tối nay tụi mình sẽ theo dõi từ phòng triễn lãm của khoa hội họa. Phòng đó nhìn ra vườn. Em sẽ thích cho coi, anh bảo đảm với em đó.”

Sau bữa ăn nhẹ vào buổi tối, lũ trẻ của khoa kịch xếp hàng vô hành lang và đi lấy đèn lồng. Phòng triển lãm nhìn ra vườn dần dần đầy ắp các khan giả, theo dõi từng đứa, từng đứa một, bọ trẻ áo chùng tím túa ra vườn. Charlie hài lòng khi thấy Olivia đã quyết định mang đôi giày hữu dụng – loại giày có thể chạy nếu bị ai đó rượt theo.

Một hàng đèn lồng lập lòe trườn qua bãi cỏ như một con rắn dài lấp lánh. Và rồi, từ từ, cái đầu rắn bắt đầu biến mất khi lũ trẻ bị các bức tường đen tối của khu đổ nát nuốt chửng.
“Bây giờ thì sao?” Charlie nín thở hỏi.

“Tụi mình đợi thôi,” Fidelio đáp.

Chúng không phải đợi lâu. Từng đám con nít bắt đầu cuống cuồng chạy ra khỏi khu vườn hoang, gần như ngay khi mới bước chân vô. Tụi nó sợ bóng tối hoặc sợ bị lạc đường. Đứa nào chạy ra tới hành lang là tên bị gạch khỏi danh sách ngay. Những chiếc đèn lồng được run run hoàn trả lại, và đám trẻ ngây ngô ấy mau chóng về phòng ngủ.

Olivia là một trong những đứa trở ra sau cùng. Fidelio và Charlie đang chờ trên cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của nó.

“Tớ không thích khung cảnh ở ngoài đó tối nay,” Olivia tía lia liền. “Không biết có cái gì đằng sau mấy bức tường cứ khiến tớ nổi da gà. Tớ cứ nhìn vô cái bóng đen đó – nó cứ thoắt ẩn rồi thoắt hiện.”

“Loại bóng đen gì vậy?” Fidelio hỏi.

“Một con thú,” Olivia nói. “Có lẽ là một con chó…em cũng không biết nữa. Em không đến được trung tâm, không ai đến được đó.”

“Mình mừng là bồ đã ra được,” Charlie nói, liếc nhìn đôi giày hữu dụng của Olivia.

“Tớ bám sát Bindi,” Olivia kể tiếp. “Đi kế chị ấy tớ cảm thấy an toàn, vì chị ấy có phép thuật. Manfred đã nhìn tớ một cái thật ghê sợ lúc hắn giao lồng đèn cho mọi người. Tớ nghĩ là hắn đã biết chuyện rồi.”

“Hắn không biết bồ đâu, Olivia” Charlie nói.

Tối hôm sau, đến lượt khoa hội họa chơi trò hủy diệt. Fidelio và Charlie có thêm Olivia cùng đi vô phòng triển lãm. Charlie cảm thấy an tâm khi biết Emma Tolly sẽ không có ở trong đám săn lùng huy chương. Nó tự hỏi không biết Emma có được ở cùng với cô Ingliedew hay không. Nếu Ông cậu nó mà ra tay trong việc này thì may ra. Ông cậu Paton là người rất uy lực, theo cách riêng của Ông cậu.

Không có gì kịch tính trong lượt chơi thứ hai này. Không ai tìm thấy huy chương và tất cả mọi người đều trở ra an toàn.

Và rồi đến tối thứ tư. Khi lũ trẻ mặc áo chùng xanh xếp hàng lấy đèn lồng, một cơn gió buốt lạnh thổi qua hành lang. Bên ngoài sẽ có gió rít đấy, và Charlie sung sướng vì chiếc áo chùng ấm áp của nó. Lần này đích thân giáo sư Bloor đứng bên bàn phát đèn lòng. Ông ta gật đầu trang nghiêm với Charlie khi tay hay người chạm vào nhau, và nó đột ngột hiểu ra rằng, không phải giáo sư Bloor là người nó sợ, mà thực ra, chính người đàn ông to lớn kia phải sợ nó.

Cửa dẫn ra vườn để mở. Những đứa trẻ đầu tiên bước ra ngoài, lao vô bóng đêm. Không có trăng, cũng chẳng có lấy một vì sao, chúng ngước lên nhìn bầu trời đen kìn kịt. Tuy nhiên, dưới mặt đất lại có một đốm sáng nhờn nhợt, nhảy nhót. Và khi giơ đèn lồng lên, Charlie thấy tuyết rơi xuống đã đóng thành một lớp mỏng. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân chúng như thủy tinh vỡ.

“Anh ở ngay sau lưng em đây, Charlie,” Fidelio thì thào, “Cứ đi đi,”

Charlie quay lại, thấy gương mặt rạng rõ của Fidelio nổi bật trong ánh sáng của đèn lồng.

“Chúc may mắn!” Charlie nói khẽ. “Hy vọng anh sẽ tìm thấy huy chương.”

“Im lặng,” một giọng đanh sắt vang lên. “Nói chuyện hoặc thì thầm sẽ bị phạt.”

Chúng đã đến cổng khu vườn đổ nát. Manfred đứng ở một bên, đánh dấu tên lên cuộn giấy dài khi lũ trẻ đi ngang qua hắn. Trên đầu hắn đung đưa một chiếc đèn lồng to, và Charlie thấy Zelda Dobinski đang đứng sau Manfred, giữ cái cây đỡ đèn lồng. Con bé lạnh lung lườm Charlie khi nó bước vô cổng vòm đá.

Nó nhận ra mình đang ở trong một khoảnh sân lát gạch, xung quanh có những bờ rào cao, dày đặc. Trước mặt nó là năm cửa vòm, phân cách nhau bởi bốn băng ghế đá. Fidelio thúc vô khuỷa tay Charlie và hất đầu về ô cửa vòm ở giữa. Chúng tiến lên. Thoạt dầu, có vẻ như chúng là cặp duy nhất chọn ô cửa vòm chính giữa, nhưng từ từ, chúng bắt đầu nhận ra các nhóm nhỏ khác cũng đang vội băng qua mặt chúng, hoặc nhốn nháo đi sát ngay bên cạnh. Thậm chí một vài đứa còn chạy ngược lại.

“Anh có nghĩ là tụi mình đang đi đúng đường không?” Charlie hỏi khẽ.

“Ai mà biết!” Fidelio đáp.

Chúng rẽ vô một góc ngoặt, và men theo một lối đi hẹp đến nỗi các bức tường cọ vô cùi chỏ khi chúng đi qua.


Có lúc chúng đến được một khoảng trống, nơi có vòi phun nước bắn tung tóe vô một cái hồ giá lạnh. Charlie thích nhất ở đó là một con cá đá khổng lồ, và Fidelio phải kéo áo chùng để lôi nó đi.

Có lúc, chúng lại húc phải một bức tượng mục hay một cái bình mốc. Và khi thời gian dần dần trôi đi, một sự thinh lặng bí hiểm dần bao trùm bọn trẻ. Chúng không còn nghe thấy tiếng lộp cộp của những bước chân vội vã, hay tiếng xì xào của những đứa khác nữa.

“Làm sao tụi mình biết được là đã đến khu trung tâm?” Charlie thì thầm.

“Có một ngôi mộ ở đó,” Fidelio đáp. “Đó là tất cả những gì anh biết.”

“Mộ? Nhưng mộ của ai?”

“Charlie!” Fidelio bỗng kêu to. “Đứng im. Có gì đó không ổn với áo chùng của em kìa.”

“Cái gì?”

Charlie quay vòng và ngó lom lom chiếc áo chùng của mình. Cái áo đang phát sáng. Những sợi chỉ nhỏ xíu sáng chói chạy khắp mặt vải, khiến cho chiếc áo giống như một đám mây lấp lánh kỳ dị.

“Bà cô của em may nó đó,” Charlie hơi hoảng. “Nhưng sao bà ta lại làm thế này?”

“Có lẽ làm vậy để ai đó có thể đi theo em trong bóng đêm,” Fidelio suy đoán, “hoặc săn đuổi em.”

Charlie cởi phăng chiếc áo chùng ra và vứt toẹt xuống đất.

“Được, họ sẽ không bắt được em đâu,” nó tuyên bố. “Em có thể bị chết cóng chứ nhất định không để bị tóm.”

“Em có thể dùng chung áo với anh nếu trời quá lạnh,” Fidelio nói.

Lối đi kế tiếp chúng chọn rất giống một đường hầm. Chúng gần như phải gập đôi người lại, hầu tránh đụng đầu vô xà nhà thấp. Charlie bắt đầu cảm tấhy khó thở trong cái không gian tù túng như thế này. Nó chạy nhanh về phía trước và thấy ló ra một khoảng trống hình tròn. Có ba bức tượng đứng ở giữa, nhưng khó mà đoán ra là tựa gì. Nó nhận ra nến trong đèn của mình đã cháy gần hết.

Cứ nghĩ là bạn mình đã ra khỏi đường hầm ở sau lưng, nó gọi,

“Hây, Fidelio, nhìn nè”

Không có tiếng trả lời. Charlie săm soi nhìn vào đường hầm. Không có ánh sáng, không có Fidelio.

“Này, nhanh lên. Đừng có loanh quanh nữa!”

Charlie lao trở vô đường hầm. Với bàn tay rảnh rang, nó dò dẫm các bức tường và khoảng không gian đen ngồm trước mặt. Hay là bạn nó dã bị ngã hay trượct vô một lối đi khác?

“Fidelio! Fidelio!” Charlie gọi to, không thèm để ý rằng mình có thể bị phạt.

Tiếng gọi của nó chìm vào im lặng. Và rồi ngọn nến tắt phụt.

Charlie chợt nhận ra là nó đã biết, ngay từ đầu, rằng điều màu sẽ xảy ra. Nó đã phạm luật, giống như ba nó ngày trước. Nó đã cứu Emma Tolly, Và bây giờ nó sẽ bị trừng phạt. nhưng nó sẽ không đầu hàng. Nó phải đấu tranh. Ném cái đèn lồng vô dụng xuống đất, Charlie bắt đầu sờ soạng tìm đường băng qua đường hầm. Ở một khúc nào đó, chắc hẳn là đường hầm sẽ tỏa ra một lối đi khác, rộng rãi, vì nó đã lại ngửi thấy một mùi không khí trong lành, dẫu không chính xác là trong lành, mà đúng hơn, đó tựa như một hỗn hợp của lá mục và đá ẩm.

Quẹo gắt ở một góc, Charlie bắt gặp ánh sáng, gần như không tin rằng mình có thể gặp may đến thế, nó chạy về hướng đó. Đèn lồng thắp trên một ngôi mộ bằng đá sừng sững. Ai đó thình lình xuất hiện từ phía sau, và Charlie thấy cái đầu trắng của Billy Raven. Đôi gọng kính tròn của thằng bé sáng lên như hai vầng trăng nhỏ.

“Em đã tìm ra huy chương,” Billy la lên.

Nó giơ ra một chiếc dĩa bằng vàng, lấp lánh đính vô một sợi dây chuyền.

“Giỏi lắm,” Charlie nói. “Anh bị mất đèn lồng, Billy à. Cho anh đi cùng em với nha?”

“Đèn của em,” Billy nói. Rồi chộp lấy đèn lồng và lủi đi thật nhanh.

“Được rồi. Anh không lấy đèn đâu, Billy”

Charlie nhìn ánh đèn vụt đi, sau đó biến mất. Nó chịu, không biết Billy đi đường nào. Chẳng thể đoán được. Thậm chí không có lấy một âm thanh để dẫn dắt cho nó.

Đột nhiên, nổi lên một tiếng động, tiếng những bước lập rập, nhẹ ru…của bốn chân. Rồi thêm hơi thở của một con vật đang thở khọc khọc. Charlie phóng vù về phía trước. Chúi nhủi và lảo đảo, nó chạy trốn khỏi tiếng bước chân nhẹ lướt và cái mùi tanh của con thú dữ.

Fidelio đã bỏ cuộc tìm Charlie. Nó nghĩ bạn mình có lẽ đã tìm được đường ra khỏi khu bỏ hoang rồi. Có điều gì đó rất kỳ lạ đã xảy ra trong đường hầm chật hẹp. Fidelio bị đẩy xuyên qua một khe nứt, vô một lối đi khác, nhưng nó không thể thấy được ai đã đẩy nó. Nó hỏi nhiều đứa khác xem có thấy Charlie hay không. Chẳng ai thấy cả.

“Billy Raven đã tìm được huy chương,” ai đó nói.

Hừm, Fidelio nghĩ. Mình tự hỏi là làm cách nào mà thằng ấy tìm được chứ?

Có vẻ như Fidelio là người cuối cùng rời khỏi khu đổ nát.

“Charlie Bone đã ra chưa?” nó hỏi Manfred khi hắn đang đánh dấu tên trên cuộn giấy.

“Ra lâu rồi,” Manfred đáp gọn lỏn.

“Anh có chắc không?”

“Tất nhiên là tao chắc,” Manfred cộc cằn.

Fidelio chạy vô tòa nhà. Nó hỏi mọi người xem có ai gặp Charlie Bone không. Tất cả những ai biết mặt Charlie đều thề là không thấy Charlie đâu cả.

“Chuyện gì vậy?” Olivia hỏi khi thấy vẻ mặt nhớn nhác của Fidelio.

“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” nó nói với cô bé.

“Ôi không! Nhưng đã lâu lắm rồi mà. Họ đã nói tất cả mọi người đều đã ra hết rồi.”

“Không đúng,” Fidelio tức giận. Nó chạy lên phòng ngủ chung.

Billy Raven đang ngồi trên giường. Năm sáu thằng bé khác đứng vây quanh nó, trầm trồ ngắm tấm huy chương treo trên sợi dây chuyền quanh cổ.

“Có ai thấy Charlie Bone không?” Fidelio hỏi cả bọn.

“Không thấy,” tất cả bọn chúng đáp.

Billy Raven chỉ lắc đầu.

“Chúc mừng nhé,” Fidelio nói. “Anh biết là em đã thắng” Nó nằm mẹp xuống giường. Không biết phải làm gì.

Nửa giờ sau, một tiếng nói cất lên, “Năm phút nữa tắt đèn.”

Fidelio chạy bổ ra hành lang.

“Bà giám thị ơi, Charlie Bone chưa vô phòng,” nó la lên.

Người phụ nữ cao lớn trong bộ đồng phục xanh được hồ cứng thậm chí không quay người lại.

“Úi trời,” bà ta nói, rồi bước tiếp.

Fidelio tự vò đầu bứt tai.

“Bà không quan tâm gì hay sao?” Nó gào lên.

Bà ta phớt lờ nó.

“Mày về trễ,” bà ta nói với Gabriel Silk khi anh chàng này chạy vắt giò lên cổ trên hành lang.

“Xin lỗi, Giám thị,” nó làu bàu.

“Cậu coi,” Gabriel nói với Fidelio, “sau khi bắt đi vơ vẩn trong khu đổ nát dơ dáy đó, họ vẫn bắt tôi phải làm xong bài tập vê nhà…”

Nó chợt chú ý đến bộ mặt khổ sở của Fidelio. “Chuyện gì vậy?”

“Charlie vẫn còn ở trong khu vườn hoang,” Fidelio gần như mếu máo.

“Cái gì?” Gabriel Silk thay đổi thái độ tức thì.

Một tia sáng quả quyết lóe lên trong đôi mắt xám của Gabriel, và trông nó như cao hơn, đứng thẳng người hơn.

“Tụi mình phải coi lại vụ này,” nó nói rành rọt và quay đầu đi ngược lại hành lang.

Fidelio bám theo, hoang mang không biết Gabriel định làm gì. Đến đầu cầu thang, Gabriel ngoái lại bảo.

“Fidelio, trở lại phòng ngủ chung. Bây giờ cậu không giúp được gì đâu.”

“Tôi muốn đi với anh,” Fidelio nài nỉ. “Charlie là bạn của tôi.”

“Không được,” Gabriel nghiêm giọng. “Đây không phải là chỗ của cậu. Nguy hiểm lắm. Cậu phải để việc này cho tụi tôi.”

Gabriel xem ra đã có được một cái nhìn hết sức thuyết phục.

Fidelio lùi lại. “Anh nói ‘tụi tôi’ nghĩa là sao?” nó hỏi.

“Những hậu duệ của Vua Đỏ,” Gabriel nói rồi phóng xuống cầu thang.

CHƯƠNG 21
CUỘC CHIẾN CỦA NHỮNG KẺ CÓ PHÉP THUẬT


“Trò chạy đâu vậy, hả?” thầy Paltry gọi khi Gabriel đi ngang qua hành lang. “Trò phải ở trong phòng ngủ chung mới phải chứ.”

Gabriel tảng lờ ông thầy. Cậu vọt qua một ngưỡng cửa, lên cầu thang, và lao dọc theo hành lang dẫn đến phòng Nhà Vua. Khi Gabriel xộc vô, trong phòng chỉ có hai người: Lysander và Tancred. Cả hai đang đọc sách.

“Charlie Bone vẫn còn ở trong khu vường hoang!” Gabriel thông báo.

Lysander và Tancred cùng ngẩng đầu lên.

“Manfred và Zelda cũng ở đó,” Gabriel tiếp.

“Và cả Asa chứ?” Lysander hỏi.

“Mình nghĩ nó đã đổi lốt rồi,” Gabriel nói. “Chắc nó cũng vô đó thôi.”

“Vậy là đã đến lúc,” Lysander tuyên bố.

Chúng hợp thành một bộ ba kỳ lạ: một thằng bé châu Phi, một thằng tóc vàng như bị nhiễm điện, và một thằng gầy trơ xương, mặt dài, nghiêm nghị. Dàn hàng ngang, chúng hùng dũng bước qua giáo sư Bloor, đang khoá cửa văn phòng của mình; ngang qua giáo sư Saltweather, đang khiêng một cái giá nhạc; qua mặt thầy Paltry, đang thu dọn đèn lồng. Không ông thầy nào có thể ngăn được chúng.

Ba thằng bé dấn thân vô màn đêm giá lạnh, nện gót trên mặt đất đóng băng, hướng về phía khu vườn hoang.

Đằng sau chúng, bọn trẻ đã tụ tập nơi các cửa sổ dài của phòng triển lãm. Tối hôm đó, sự bất tuân có ở khắp nơi nơi. Olivia Vertigo đã loan tin: một cậu bé bị kẹt trong khu bỏ hoang. Bất chấp những nội quy và mệnh lệnh của bà giám thị, bọn trẻ vẫn tụt khỏi giường, và chạy băng xuống những hành lang tối thui, nháo nhác thì thầm với nhau.

Fidelio đứng bên Olivia cạnh cửa sổ.

“Anh có cảm thấy gì không?” nó hỏi.

Một cơn gió rít lên chìn chịt. Cơn gió quấn quanh ba bóng người đang rầm rập nhắm thẳng tới những bức tường đá cao nghệu, thốc tung áo chùng của họ vào màn đêm gió lộng. Không ai trong số đó cầm đèn lồng, nhưng Fidelio thấy những đám mây đen bay dạt đi, và rồi, một vầng trăng tròn toả ánh bạc khắp khu vườn.

“Chao! Anh Tancred đó,” Olivia xuýt xoa. “Em đã dò hỏi rồi. Người ta bảo anh Tancred có thể gọi gió, và cả bão nữa.”

“Còn Lysander thì sao?” Fidelio hỏi.

“Không rõ lắm,” Olivia thì thào. “Nhưng anh ấy mạnh mẽ lắm. Nghe đồn anh ấy có thể gọi hồn, nhưng tất cả mọi người đều thừa nhận điểu đó. Asa Pike có thể thay đổi hình dạng, nhưng chỉ trong đêm thôi.”

“Ra là như thế,” Fidelio gật gù.

Nó biết Manfred có thể làm được gì, và nó đã nghe nói là Zelda Dobinski có thể di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ. Nhưng là những loại đồ vật nào? Nó tự hỏi. Liệu con bé ấy có thể di chuyển người ta được không?

Ở sâu trong khu bỏ hoang, Charlie đang co ro nép mình vô một vách tường. Nó tưởng đã thoát khỏi con quái thú, nhưng bây giờ con vật ấy lại đang mò tới gần. Nó nghe thấy tiếng đá lột xột khi con vật lồng lộn quanh cái sân sạt lở.

Charlie loạng choạng đứng dậy. Nó vừa lao về trước được vài bước, thì chợt có cái gì đó vút tới, choán ngang đường nó chạy. Nó hụp xuống và nhận ra những đường viền thô ráp của một pho tượng. Pho tượng này đã suýt giết chết nó. Nó trèo qua pho tượng và thận trọng nhích lên. Có một cái hồ, và tiếng vòi phun đều đặn rót nước vô hồ nghe rào rào. Một gợn nước lớn hất Charlie nhào xuống đất, và đá từ cái vòi phu nứt nẻ đó trút xuống người nó như mưa.

Nó xoay người nằm sấp lại, hai tay ôm chặt lấy đầu.

“Mình sẽ không đầu hàng! Không! Không đời nào!” nó lầm rầm. Nhưng nó có thể cầm cự được bao lâu? Kẻ thù của nó rất mạnh. Có ai đủ uy mãnh để giúp nó không?

Như là câu trả lời, một làn gió nhẹ luồn qua các khóm cây thấp. Cơn gió mạnh dần lên và biến thành cơn cuồng phong, rít rú quanh những hòn đá cổ và gầm thét khắp bầu trời. Gió rung chuyển gác chuông nhà thờ lớn, khiến những hồi chuông ngân lên không ngớt, vang vọng khắp thành phố, như cảnh báo một tai ương gì đó sắp xảy ra. Ngóc nhìn lên, Charlie thấy ông trăng tròn vén mây hiện ra. Ánh trăng ngời chiếu toàn bộ khu đổ nát, soi rọi để tất cả mọi nguy hiểm đều có thể được thấy rõ. Vài tảng đá khổng lồ tự nhiên lăn ra khỏi những bức tường, và Charlie giờ đã có thể bước thẳng qua lỗ trống. Nhưng nó nên đi đường nào bây giờ?

Con quái thú cũng nhìn được đường đi của mình. Nó càng lúc càng điên tiết hơn. Dường như tiếng gầm gừ của nó phát ra từ mọi hốc hẻm, và bất thình lình, nó ở kia, lù lù ngay trước mặt Charlie, chỉ cách vài mét! Cặp mắt nó vàng khè, long lên sòng sọc, và cái mũi tua tủa lông của nó chun ra sau, phô đôi hàm nanh dài, sáng loé.

Charlie đứng đờ ra, chờ cho con quái thú vồ tới, nhưng thốt nhiên, có một vật gì đó nhợt nhạt và ma quái nhẹ nhàng nhảy vô giữa chúng. Charlie nhận ra một ngọn giáo và một cái khiên. Và một bóng người hiện ra, rồi thêm một bóng người nữa. Họ bao vây con quái thú, và con vật bị dồn vô góc tường, tru lên sợ hãi.

Hấp tấp lùi trốn khỏi những hình hài như bóng ma, chân Charlie vấp vô một tảng đá phủ đầy rêu với cỏ, khiến nó ngã dúi sang một bên, và nhào vô một bụi gai. Thấy con mồi của mình nằm bất lực, con quái thú liền xông vô tấn công, nhưng hai lưỡi giáo sáng loáng liền phóng xuống, chặn lại, suýt lạng mất cái mũi đen của nó. Mắt con vật trợn trừng trừng, chĩa thẳng vào Charlie, nhưng không thể đụng được tới thằng bé – con thú sợ và không dám vượt qua những lưỡi giáo lấp lánh kia.

Charlie ráng nhổm dậy, và lập chập bước đi. Gai nhọn đã xé toạc mặt và bàn tay nó. Nó nếm thấy vị máu trên môi và cảm thấy máu đang nhỏ giọt từ những ngón tay. Nó run lên bần bật. Bàn chân tê dại, nó thấy đầu mình nhẹ tênh đến độ gần như không thể suy nghĩ được.

“Mình phải thoát khỏi đây trước khi chết cóng,” nó lẩm bẩm, hàm răng va lập cập vào nhau.

Bỗng nhiên, có cái gì đó âm ấm cọ vô cẳng chân Charlie, nó giật mình nhìn xuống thì thấy con mèo màu đồng Dương Cưu. Con Nhân Mã hiện ra từ phía bên kia, tiếp đến, con Sư Tử nhẹ nhàng nhảy ra từ sau bức tượng phía trước mặt. Mũi con này nối đuôi con kia, lũ mèo bắt đầu vây quanh Charlie, và hơi ấm từ bộ lông rực cháy của chúng thấm vô người Charlie, lan tới tận những khớp xương đau nhức.

Khi Charlie gia tăng nhịp bước, lũ mèo bèn phóng lên phía trước, như một khối lửa dài, dẫn đường cho nó đi qua toà lâu đài đổ nát.

Dần dần, Charlie phát hiện mình đi ngang qua những bức tượng mà nó đã thấy trước đó, nhiều bức đã đổ sụp xuống đất, nhưng nó vui mừng khi thấy vòi phun nước hình con cá đá vẫn còn nguyên.

Cuối cùng, chúng ra đến mảnh sân có năm cửa vòm. Gió đã lặng, và tiếng chuông xa xa cũng ngừng vang. Ba con mèo nhảy phóc lên ngồi trên một băng ghế đá và bắt đầu tự liếm láp.

“Bọn bay không ra với ta sao?” Charlie hỏi.

Chúng nhìn Charlie và kêu rừ rừ thích thú.

“Cám ơn bọn bay nhé,” Charlie cảm kích.

Từ đây, nó đã có thể thấy bãi cỏ uốn lượn, tuyết phủ trắng xoá, ở phía bên kia vòm cửa cuối cùng. Nhưng ai, hay cái gì, đang ở đằng đó? Nó đã thực sự thoát hay chưa? Charlie ngần ngại, hít thật sâu và lừng khừng bước qua cửa vòm.

Có ai đó bước tới, đi bên cạnh nó.

“Chào em, Charlie,” Gabriel mừng rỡ. “Em bình an rồi.”

Charlie nhẹ nhõm đến độ nó nghĩ mình sắp xỉu đến nơi. Nhưng trước khi nó ngã xuống, thì những cánh tay mạnh mẽ đã đỡ nó đứng thẳng dậy, và Tancred, Lysander lo lắng quan sát gương mặt nó.

“Ái chà!” Tancred la lên.

“Em không sao chứ?” Lysander ân cần.

"Không sao," Charlie đáp. "Cám ơn các anh," nó thấy khắp mặt đất vương vãi đầy những nhánh cây to, nhỏ; còn tuyết bị vun lại thành những ụ to phành phành.

"Ở đây vừa có bão," nó buột miệng.

"Kèm những thứ khác nữa," Lysander cười ngất.

"Như thế là quá nhiều đối với một số người," Tancred phụ họa, thậm chí còn cười ngất hơn Lysander.

Charlie thấy hai bóng người quỳ mọp trên đất. Nó nhận ra đó là Manfred và Zelda.

"Nhanh lên đi nào," Gabried giục giã. "Thể nào bà bếp trưởng cũng sẽ bày một đại tiệc lúc nửa đêm cho coi."

"Tiệc?" Charlie kinh ngạc. "Có được phép làm vậy không?"

"Tối nay là một ngoại lệ," Lysander nheo mắt nói. "Bất cứ việc gì cũng đều được phép tuốt."

Khi chúng đến gần khối đen lừng lững của Học viện Bloor, Charlied để ý thấy vài cửa sổ đang rực sáng đèn. Dẫn đầu đám trẻ con đông nghẹt, nó nhận ra Olivia và Fidelio đang nhảy múa như điên cuồng và cuống quít vẫy tay.

Charlie vẫy tay đáp lại.

"Tụi bạn em đó, trông tụi nó tức cười quá."

"Fidelio đã báo cho anh biết là em bị lạc," Gabriel nói. "Nếu cậu ấy mà không nói thì có lẽ bây giờ em vẫn còn đang ở trong khu quỷ quái đó."

Charlie rùng mình.

Tancred mở cửa vườn, và chúng vô giữa đám đông trẻ con đang đứng giăng như thành lũy. Hết thảy bọn trẻ tranh nhau la hét.

"Bồ ra bằng cách nào hay vậy, Charlie?"

"Chuyện gì xảy ra trong đó vậy?"

"Sao em lại bị lạc thế?"

"Tránh đường," Lynsander vừa hét vừa đẩy đám đông đi vô.

"Thôi nào, tất cả," Tancred thúc hối. "Cho Charlie qua nè."

Đám đông ngoan ngoãn dạt ra thành một lối hẹp, để cho Tancred, Lysander và Charlie đi giữa hai hàng học trò. Cuối cùng, khi vô đến hành lang, Charlie thấy cái bàn dài để đèn lồng bây giờ chất đầy những dĩa bánh mì kẹp, bánh nướng, xúc xích và khoai tây chiên. Bà bếp trưởng đang hối hả bên cạnh bàn, tất bật phân phát các món ăn.

Processing.... Processing....
“A, vị khách danh dự đây rồi,” bà reo lên khi trông thấy Charlie. “Này này, thằng bé lạnh cóng tội nghiệp kia, giờ thì con muốn ăn cái gì nào?”

Charlie ngây ngất. “Ừm… à,” nó lắp bắp, đảo mắt khắp bàn thức ăn. “Con không… ờ…”

Món nào cũng ăn,” Lysander diễn giải. “Nó muốn ăn tất tần tật.”

“Rồi, rồi, có ngay, có ngay,” bà bếp trưởng vừa nói vừa thoăn thoắt múc một dĩa đầy thức ăn.

Charlie bắt gặp Olivia và Fidelio đang cố sức chen lấn khỏi đám đông.

“Tiếp theo bà lấy cho mấy đứa bạn kia của con được không ạ?” nó hỏi bà bếp trưởng. “Tụi nó vừa…”

“Không được,” bà bếp trưởng gạt phắt, rồi trao cho nó cái đĩa. “Phải xong ba dĩa đầu tiên này đã.”

Bà chỉ những người đã cứu Charlie.

“Nếu không có họ, con đã chẳng ở đây được, đúng không nào?”

“À… đúng ạ,” Charlie hơi tẽn tò. “Con xin lỗi.”

Bà bếp trưởng nháy mắt với nó một cái, rồi phát dĩa thức ăn (loại thập cẩm) cho Gabriel và Tancred, và một dĩa khoai tây cho Lysander, người chỉ thích khoai tây chiên.

Charlie thấy tất cả các giáo viên thuộc khoa thanh nhạc đều có mặt trong hành lang. Họ đang cố sắp xếp lũ trẻ thành từng nhóm. Thầy Paltry mặt đỏ nhừ và có vẻ tức giận, nhưng giáo sư Saltweather xem ra lại có vẻ thích chí. Chốc chốc, ông lại bật hát lên khi hướng dẫn lũ trẻ ra bàn.

Cô Chrystal tươi cười với Charlie và giơ hai ngón tay cái lên với nó. Cô đang giúp bà Dance giữ tụi nhỏ hơn ở yên ngoài hành lang. Ngoại trừ Tancred và Lysander, chỉ có các học viên của khoa nhạc mới được phép dự tiệc.

Olivia đã xoay xở đâu đó được một chiếc áo chùng xanh, và cho đến giờ, không ai trong các thầy cô nhận ra nó không phải là học trò của khoa nhạc. Nó chạy lại chỗ Charlie, với hai dĩa xúc xích trên tay.

“Tớ lấy thêm một dĩa cho đằng ấy đây. Tội nghiệp đằng ấy quá, mình mẩy bầm tím cả, eo ôi nhìn đầu tóc kìa.”

Charlie vuốt vuốt đám tóc bùi nhùi như cái bờ giậu của nó, bám đầy lá và nhánh cây nhỏ.

“Ừ, mình quên mất,” nó nói.

Nó đã khá no rồi, nhưng không thể từ chố lời mời của Olivia.

“Tụi mình ăn chung đi,” nó đề nghị, rồi hạ giọng hỏi, “Sao bồ lấy được cái áo chùng xanh này vậy?”

“Của Billy đó,” nó bật mí. “Thằng nhỏ mệt quá nên không xuống được, uổng cho nó quá. Nó tìm thấy huy chương đấy, đằng ấy biết chứ?”

“Ừ, mình biết,” Charlie ưu tư.

Fidelio liếc Charlie một cái, chân mày nhướn cong lên. Chúng cần phải nói chuyện với Billy Raven, Charlie quyết định. Ai đó (hay một điều gì đó) đang khiến thằng bé này hành xử hết sức kỳ lạ.

“Mình không tin được là toàn bộ các món ăn này được dọn ra chỉ vì mình bị kẹt trong khu vườn hoang,” nó lẩm bẩm.

“Ấy là do bà bếp trưởng đó,” Fidelio giải thích. “Khi bà ấy quyết định điều gì thì không thầy cô nào có thể ngăn được. Kể cả giáo sư Bloor. Năm ngoái, một nam sinh tên là Ollie Sparks biến mất trong ba ngày. Nó bị lạc trong khu mục nát của toà nhà và không ai tìm thấy nó. Cuối cùng nó cũng ra được nhờ chui qua một cái lỗ dưới sàn nhà. Khắp người nó trầy xước và bầm tím, tóc bám đầy mạng nhện. Thậm chí một thời gian sau nó vẫn chưa nói được. Nhưng cuối cùng bà bếp trưởng cũng dọn lên cho nó một bữa tiệc nửa đêm thịnh soạn. Sau đó nó được gởi về nhà, không bao giờ quay lại đầy nữa.”

“Em không trách…”

Lời nói kế tiếp của Charlie chợt ngừng lại dở chừng trên môi, bởi vì cửa vườn đột ngột mở toang, và giáo sư Bloor với bà cô Lucretia xuất hiện. Mỗi người một tay, họ đang kéo cái thân người mềm rũ của Manfred Bloor. Rõ ràng là trông hắn không còn cái vẻ dọa dẫm nữa. Đầu hắn ngửa về trước và đôi mắt dễ sợ nhằm hờ lại. Bà cô Lucretia thảy một cái nhìn héo úa về phía Charlie, trước khi biến mất qua cánh cửa dẫn đến chái phía tây.

Sự im lặng rơi phịch xuống khắp hành lang khi thầy Carp và một giáo viên nữa xuất hiện, dìu theo cái hình hài lết đi khập khiễng của Zelda Dobinski.

Tất cả đám nhỏ ngày thường vẫn sợ Zelda và Manfred, giờ việc trông thấy cảnh hai đứa này sống dở chết dở cũng khiến cho mọi trò vui tắt ngấm trên bàn tiệc. Một loáng sau gần như tất cả bọn trẻ bắt đầu chuồn về phòng ngủ.

Khi Charlie, Gabriel và Fidelio nhẹ nhàng đi vô, tất cả nam sinh trong phòng ngủ chung hình như đã ngủ cả. Nhưng có tiếng sụt sịt phát ra từ phía góc phòng có giường của Billy. Trong bóng tối, Charlie mò tìm đến giường của thằng bé.

“Billy,” nó gọi khẽ. “Em còn thức không?”

“Em xin lỗi vì đã bỏ anh lại trong khu vườn hoang,” Billy thì thầm. “Em không cố tình để anh bị thương đâu.”

“Không sao đâu,” Charlie đáp lại. “Nhưng em đã phản bội Emilia, em có biết không? Em đã nói cho ai đó về việc Emilia ấy tỉnh lại. Sao em lại làm thế, Billy?”

Không có tiếng trả lời.

“Có người nào đó bắt buộc em phải làm thế, đúng không?” Charlie dò hỏi.

Một sự im lặng kéo dài, mãi rồi Billy mới thì thầm:

“Em chỉ muốn được nhận làm con nuôi thôi. Như vậy là sai hả anh?”

Charlie không trả lời.

Ngày hôm sau, nhịp sống trở lại bình thường. Điều khác biệt duy nhất là hầu hết các giáo viên đều biết thông cảm hơn mọi thường. Họ giả đò lờ đi những cái ngáp và vài lỗi quên của Charlie. Thực ra thì nó đã ngủ gật trong giờ Ngữ Văn. Chỉ có thầy Paltry là vẫn nóng tính như thường lệ.

Và rồi, vào giờ ăn trưa, Fidelio nhảy xổ đến chỗ Charlie, loan báo một tin hết sức động trời: anh trai Felix của nó đã đến, lấy cớ là để giao cây vĩ cầm vừa sửa xong, nhưng kỳ thực là để báo cho Fidelio hay những gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài.

“Emma và cô Ingledew cứ khoá cửa, ở trong tiệm sách suốt,” Fidelio báo. “Hai dì cháu không cho ai vô. Gia đình Moon nện cửa ầm ầm, đòi Emma phải về với họ. Họ nói cuộn băng của tiến sĩ Tolly chẳng chứng minh được gì cả. Không có giấy tờ và chữ ký thì họ không tin Emma là con gái của nhà phát minh.”

Charlie bật dậy. “Tức là sau những gì tụi mình đã làm, cô Ingledew vẫn không thể giữ Emma lại suốt đời hả?”

“Có lẽ thế thật,” Fidelio buồn bã. “Trừ phi tìm thấy giấy tờ.”

“Giấy tờ gì?” Charlie hỏi.

“Em biết đó, những thứ giấy chứng minh xem em là ai. Đại loại như là giấy khai sinh, giấy nhận con nuôi vậy đó.”

Charlie rên rỉ. “Cái bọn gia đình Bloor ấy, chúng nó có những loại giấy tờ đó mà, phải không? Em cá là bọn họ giấu ở đâu đó.”

“Chắc chắn,” Fidelio tán thành. “Việc kế tiếp chúng ta phải làm là tìm cho ra những giấy tờ đó.”

Charlie hình dung ra viễn cảnh khủng khiếp là một ngày kia nó bị bắt quả tang đang leo vô những gác mái tối hù, và bị cầm túc năm này qua năm khác.

“Không dễ đâu,” nó làu bàu.

Nhưng việc ấy đã diễn ra mà Fidelio và Charlie không phải làm gì cả. Có người khác đã làm thay chúng, theo một cách cực kỳ ấn tượng.

Những tiếng nổ bắt đầu diễn ra trước khi đèn tắt một giờ. Tiếng nổ đầu tiên thật khó mà nghe thấy. Chiếc đèn lồng treo phía trên cổng chính nổ bụp một tiếng nhỏ, và những mảnh thuỷ tinh văng ra. Tiếng nổ kế tiếp lớn hơn. Một tấm kính cửa sổ của chái phía tây nứt ra và vỡ vụn xuống lớp sỏi trên khoảng sân gạch.

Lũ trẻ bật ra khỏi giường, hoặc bươn ra từ các nhà tắm, quýnh quáng vứt cả khăn tắm và bàn chải, để xem chuyện gì đang xảy ra.

Charlie mở cửa sổ trong phòng ngủ chung, mười hai cái đầu thò ra khỏi các bậu cửa sổ. Phía dưới, chúng thấy một người đàn ông cao lớn, khoác áo dài đen sẫm. Ông đeo bao tay đen, mang khăn quàng trắng, và mái tóc đen rậm rạp óng ánh như viên đá được đánh bóng.

“Ôi chao!”

“Ông ta là ai thế?”

“Ông ta làm gì vậy?”

Những tiếng xì xầm làm ong ong cả đầu Charlie. Nó thấy các cửa sổ khác cũng đã mở, lũ trẻ đang trao tráo dòm xuống sân.

“Đó là Ông cậu của mình,” Charlie kiêu hãnh trả lời, kèm theo một nụ cười đắc ý.

“Ông cậu của bồ?”

“Ông ấy muốn gì?”

“Ông ấy làm bể cái cửa sổ đó phải không?”

“Ông ta làm bằng cách nào vậy?”

“Trông ông ấy đâu có giống mấy thằng hay đi đập bể cửa sổ đó!”

Lời bàn tán mỗi lúc mỗi rôm rả hơn, và tiếng bà giám thị từ hành lang, quát quàng quạc.

“Đóng cửa sổ lại! Vô giường mau! Tắt đèn! Tắt đèn!”

Một vài đứa vội vàng trở về giường, nhưng những đứa khác vẫn mải miết ngó người đàn ông dưới sân. Bây giờ ông đang chậm rãi bước thành những vòng nhỏ, và ngước lên nhìn bọn trẻ. Khi thấy Charlie, ông cười hết cỡ. Charlie nín thở. Nó cảm thấy có tiếng ngâm nga rất lạ, vốn luôn xuất hiện trước khi xảy ra sự cố bể bóng đèn.

“Bloor!” Ông cậu Paton bất ngờ hét lớn. “Ông biết ta đến đây vì cái gì rồi đấy. Hãy cho ta vô.”

Cánh cửa được trang trí bằng đinh tán đồng vẫn đóng im ỉm. Tiếng xì xào dứt hẳn. Tất cả mọi người nín thở chờ xem điều gì sẽ xảy ra.

“Giỏi lắm,” Ông cậu Paton gầm lên.

Giờ, ông quay lưng lại phía bọn trẻ và đối mặt với các phòng riêng của gia đình Bloor ở chái phía tây.

Một tiếng rầm. Những tấm kính của cửa sổ đang sáng đèn bay vèo vèo trong không trung. Tấm này nối tiếp tấm khác. Tiếng nổ lần sau lớn hơn tiếng nổ lần trước, những mảnh kính bay rớt xuống đất càng lúc càng hăng.

Charlie sững sờ. Nó không ngờ là khi cần thì phép thuật của Ông cậu nó cũng có thể mạnh mẽ đến vậy.

“Yewbeam!” có giọng nói rít róng. “Dừng lại, nếu không ta sẽ gọi cảnh sát.”

“Ồ, ta không nghĩ vậy đâu,” Ông cậu Paton quát lại. “Có những việc đang xảy ra ở đây mà ông sẽ không muốn cho cảnh sát biết đâu. Nào, bây giờ thì đưa giấy tờ của Emma Tolly cho ta, trước khi ta làm bể tất cả bóng đèn trong toà nhà này.”

Charlie thấy một cửa sổ ở chái phía tây đóng sập lại, nhanh như chớp.

Căn phòng co cánh cửa sổ đó tối thui, nhưng một giây sau, một cửa sổ khác vỡ tan tành. Và bây giờ, Ông cậu Paton hướng sự chú ý sang chái phía đông, nơi một số giáo viên không nhận ra bóng đèn là nguồn gốc của những tiếng nổ, vẫn đang bận bịu dọn dẹp các lớp học.

BỐP! BỐP! BỐP! Ba cửa sổ của phòng thí nghiệm khoa học nổ tung. Nhưng lần này tình hình nghiêm trọng hơn nhiều. Có thứ gì đó trong phòng thí nghiệm bốc cháy. Khói đen và mùi hoá chất cháy bị gió cuốn lên, sộc tới lũ trẻ đang đứng nhìn.

“Ngừng lại!” giáo sư Bloor rống lên. “Paton, ta xin ông!”

“Đưa giấy tờ cho ta,” Ông cậu Paton yêu sách.

Im lặng.

Thế rồi bất thình lình một cơn mưa như châu báu đủ màu trút xuống. Ai đó đã quên tắt đèn trong nhà nguyện, và những cửa sổ ráp kính màu giờ đây chỉ còn trong dĩ vãng.

“Thôi thôi!” một giọng thét lên.

Trong bầu không khí yên lặng tiếp sau đó, một đám giấy tờ bay lơ lửng từ một cửa sổ trên lầu. Giấy chao liệng và lượn lờ mấy vòng trước khi rơi xuống đất, hệt như những bông tuyết khổng lồ ham vui đùa.

Vừa chạy đến nhặt những tờ giấy rơi, Ông cậu Paton vừa bật cười, ban đầu là tiếng khà khà trong cổ họng, rồi rộ lên thành một tiếng cười sang sảng, và cuối cùng là một tràng cười Ha! Ha! Ha! ngạo nghễ trong chiến thắng.

Lũ trẻ đứng chứng kiến không thể không bắt cười theo, và chẳng mấy chốc, sân Học viện Bloor tràn ngập tiếng cười, và tiếng dội của nó vẫn còn được nghe thấy đến mãi tận lễ Giáng sinh.

Chương 22
đêm dài nhất trong năm


Báo chí đưa tin về vụ bể cửa sổ. Họ giật tít NHỮNG VỤ NỔ BÍ HIỂM Ở NGÔI TRƯỜNG CỔ. những người chỉ nghe kể lại nhất quyét không chịu tin đó là sự thật.

Ông cậu Paton mang giấy tờ chứng nhận của Emma Tolly giao cho cô Ingledew. Và khi những giấy tờ ấy đã xác minh, không một chút nghi ngờ, rằng Emilia Moon đúng thật là Emma Tolly, thì gia đình Moon mới chịu buông hy vọng giành lại con bé. Thật ra họ chẳng màng gì đến Emma, mà chẳng qua họ chỉ tiếc cho món tiền trợ cấp từ nay sẽ thôi được hưởng. Giáo sư Bloor đã trả công họ hậu hĩnh cho việc trông nom con bé.

Rõ ràng chữ ký của tiến sĩ Tolly trên những giấy tờ giao nhạn con nuôi đều là giả mạo, nhưng cô Ingledew để cho qua tất cả. Cô chỉ muốn có Emma, và Emma không muốn gì hơn là được sống với dì mình mãi mãi, trong ngôi nhà tuyệt vời, toàn sách là sách.

Vào buổi sáng sau vụ cửa sổ nổ ấy, trong mảnh sân gạch của Học viện Bloor là một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Mảnh thủy tinh rải khắp sân. Những mảnh lớn sáng loáng, những mảnh nhọn óng ánh như kim cương, những mảnh vụn lấp lánh đủ mọi màu sắc, tất cả trộn lẫn trong lớp bột thủy tinh nhuyễn màu bạc, sáng lóa và rực rỡ dưới ánh mặt trời.

Những công nhân tới dọn dẹp “bãi chiến trường” gần như không thể tin vào mắt mình. Hạt Đậuọ dán tịt mặt vô những bức tường đã xưa cũ, những cửa số tối, trống hoác, và gãi gãi đầu. Chuyện quái gì đã diễn ra trong cái Học viện Bloor này vậy?

“Tôi không thích cho con trai tôi học ở đây đâu,” một người nói.

“Tôi cũng thế,” một người khác đồng tình.

Một nơi kỳ quái,” ngừoi thứ ba nhận địh.

Trong căn nhà số 9 dường Filbert, ngoại Maisie đang bận rộn làm các loại bánh Giáng sinh. Cuộc chiến tranh giữa Ông cậu Paton và những bà chị của mình đã kết thúc. Chí ít là vào lúc này. Ông cậu Paton là người chiến thắng, nhưng Charlie biết, sẽ còn những trận chiến khác nữa. Cuối cùng thì Ông cậu Paton đã ngẩng đầu lên, và những bà cô nhà Yewbeam đang lo lắng. Chẳng chóng thì chầy, họ sẽ tìm cách san bằng tỉ số cho bằng được.

Suốt cả ngày cuối tuần, chiếc ghế bập bên bên cạnh lò sưởi vẫn trống trơn. Không một lần nào Charlie trông thấy nội Bone. Nhưng nó vẫn cảm thấy nội đang sôi sung sục, tức tối, hờn dỗi, và nghiền ngẫm ủ ê trong phòng riêng. Nó không quan tâm. Nó chỉ cảm thấy bình an. Nó có những người bạn tốt, và có một Ông cậu sẽ không chịu khuất phục bất cứ thói ác độc nào nữa. Nó thậm chí còn nghĩ đến việc mua tặng một đôi vớ cho nội Bone nhân dịp Giáng sinh. Chắc chắn nội chỉ cần vớ mới.

Khi mẹ nó nêu ý kiến rằng sẽ tốt hơn nếu Charlie đừng trở lại Học viện Bloor nữa (tất thảy những vết thâm tím trên mình nó khiến mẹ nó sốc), thì Charlie phản đối liền.

“Mẹ, con cần phải quay lại đó,” nó nói. “để giữ cân bằng.”

Trông mẹ nó hết sức hoang mang.

“Rất khó mà giải thích cho mẹ,” Charlie phân ua. “Con biết đúng là có những việc xấu xa đang xảy ra ở Học viện Bloor, nhưng ở đó cũng có những điều tốt. Con nghĩ ở đó người ta cần con. Để giúp đỡ mọi người…”

“Ừ,” mẹ nó rầu rầu

Giây phút đó, trông mẹ nó thật não nề, Charlie nôn nao, mong được nói với mẹ rằng, một ngày nào đó, mẹ sẽ gặp ba. Nhưng nó ráng cố ngậm miệng lại. Còn quá sớm để làm cho mẹ nuôi hy vọng. Thay vì vậy, nó hỏi mẹ xem mẹ nó thích quà gì cho Giáng Sinh.

“Ôi, suýt nữa thì mẹ quên,” mẹ nó thốt lên. “Cô Ingledew sẽ tổ chứ bữa tiệc mừng Emma trở về nhà, và tất cả chúng ta sẽ được mời. Con thấy có tuyệt không?” Nụ cười đã bừng sáng trở lại trên gương mặt mẹ.

Thời gian còn lại của học kỳ trôi qua với những hoạt động tất bật, sôi động: tập kịch, chuẩn bị triển lãm, luyện thanh cho các bài hát mới, sắp xếp các buổi hòa nhạc… Có trốn đi đâu, người ta cũng không thể nào dứt khỏi những tiếng ngân vang, tiếng hát cao vút, và tiếng nhạc nện ìn ình.

Manfred và Zelda phải mất một tuần mới bình phục khỏi những gì Tancred và Lysander đã làm với chúng. Cái cặp hay cáu bẳn này vẫn chưa trở về là chính chúng. Manfred vẫn dán ánh mắt ma mãnh của hắn xuống sàn nhà, và Zelda bị nhức đầu đến mức nó không thể dùng ý nghĩ để nhấc hộp bút chì lên. Tuy nhiên, Asa vẫn là nó. Vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy nó chính là con sói, ngoại trừ đôi mắt nó.

Vào ngày cuối cùng của học kỳ, khoa kịch trình làng một vở mang tên Tuyết trắng. Ngoại Maisie và mẹ Charlie có mặt trong số khán giả. Nhưng Ông cậu Panton thì tránh xa. Ông cảm thấy ở đây người ta không muốn đón tiếp mình. Và Charlie cũng đồng ý với ông.

Olivia đóng vai mụ dì ghẻ độc ác. Nó đúng là một thiên tài. Không ai đoán được nó mới chỉ có 11 tuổi. Khi Olivia bước lên sân khấu diễn màn cuối cùng, tiếng vỗ tay nổi lên như sấm, đinh cả tai mọi người.

Lúc Charlie tới chào tạm biệt Oliva, nó thấy Olivia bị những người hâm mộ vây cứng. Nhưng Olivia đã trông thấy Charlie, đang đứng xớ xớ ra rìa đám đông, thế là nó hét to:

“Hẹn gặp ở bữa tiệc nha, Charlie!”

Bữa tiệc của cô Ingledew diễn ra vào đêm dài nhất trong năm – ba ngày trước Giáng Sinh. Charlie và gia đình nó là những vị khách cuối cùng tới nơi, bởi vì ngoại Maisie đã phải thay đổi quần áo những năm lần, trước khi quyết định mặc chiếc váy xa tanh màu hoa cà, có những viền đăng ten. Nội Bone, vẫn còn giậ ndỗi, không được mời.

Thật ngạc nhiên khi bao nhiêu người mà cô Ingledew vẫn dồn hết được vô căn phòng khách bé xíu của cô. Fidelio đi cùng ông bố vạm vỡ của mình, và Olivia đi với bà mẹ minh tinh màn bạc của nó. Benjamin dắt theo Hạt Đậu, giờ đã hoàn toàn khỏi hẳn, và có cả ba và mẹ nó cùng đi. Ông Onimous được ba con mèo lửa hộ tống. Bọn mèo nhất định không chịu lánh mặt khi chúng hít ngửi thấy mùi bữa tiệc trong không khí. Và, dù sao thì, chúng cũng đóng một vai trò to lớn trong việc giải cứu Emma.

Những chai nước ngọt, ly tách và vô số dĩa đồ ăn ngon mắt, mê ly đã được dọn cả lên quầy sách. Ông cậu Paton tự phục vụ mình một dĩa đầy tú hụ. Một tia sáng lóe lên trong mắt khi Ông cậu trầm trồ:

“Julia thân yêu, tài nghệ nấu nướng cua em thật cừ khôi.”

“Ôi, chỉ là mấy món ăn vặt thôi mà,” cô Ingledew nói, má ửng đỏ.

Căn phòng ấm cúng của cô được thắp sáng toàn bằng nến là nến: nến cao, nến thấp, nến mập, nến ốm… chúng lung linh nhảy ở khắp mọi ngõ ngách. Charlie nhận thấy tất cả những bóng đèn đều đã được tháo ra. Cô Ingledew không dám liều lĩnh một chút nào cả.

Sau một hồi, bọn trẻ quyết định tự tổ chức một bữa tiệc của riêng mình ở ngoài cửa tiệm. bởi vì có quà nhiều đứa gài chuyện, và có rất nhiều người lớn vui mừng quá đỗi trong phòng khách. Nhưng gần tới nửa đêm, cô Ingledew gọi tất cả trở vô. Cô muốn phát biểu một đôi lời.

Bài diễn văn của cô chẳng kéo dài được lâu. Trong nước mắt ngập tràn, cô cảm ơn mọi người đã giúp cô tìm ra đứa cháu yêu quí, con gái người chị Nancy của cô.

“Đó là ngày hạnh phúc nhất cuộc đời tôi, khi ông Yewbeam..ờ… anh Paton, đem Emma đến cửa nhà tôi,” cô xúc động.

Và rồi cô phải ngồi xuống và hỉ mũi, vì nước mắt tuôn ào ạt.

Những lời xuýt xoa cảm thông, cùng những lời chúc mừng nổi lên. Emma chạy lại ôm chặt lấy cô. Nhưng tất cả những bùi ngùi xúc động phải lắng xuống do ông Onimous, trông vô cùn lịch duyệt trong chiếc áo gi-lê giả lông ,đã nhảy lên một chiếc ghế, bày tỏ rằng ông rất vui ngay từ khi bắt đầu tìm kiếm Emma, và rằng ông hãnh diện biết bao về ba con mèo của mình.

Đúng lúc đó, một bất đồng nho nhỏ nổ ra giữa Hạt Đậu và những con mèo lửa. Nhưng vụ xô xát chỉ dừng lại ở những tiếng gầm gừ và vài cú cào cấu, rồi tất cả được lập lại trật tự chỉ bằng một tiếng “ừm” của ông Onimous.

Emma Tolly là người cuối cùng phát biểu trong đêm hôm đó. Con bé trông hoàn toàn khác với Emilia Moon. Mái tóc vàng óng được cột gọn gàng thành một túm đuôi ngựa, và má nó ửng hồng lên vì vui sướng. Cứ như con bé Emilia xanh xao ngày xưa không phải là người thật, mà chỉ là một nhân vật phiền muộn bước ra từ chuyện thần thoại.

“Cháu rất hạnh phúc,” con bé cất lời. “Cháu vẫn không tin nổi là mình đang có mặt ở đây. Cháu cứ tự ngắt véo mình hoài. Trước khi cháu có thể nói gì thêm, cháu muốn tất cả mọi người biết rằng, cháu sẽ trở lại Học viện Bloor vào học kỳ tới.”

Cô Ingledew ngẩng lên, giật mình.

Cô định nói “Không…” nhưng Ông cậu Paton nhẹ nhàng ngăn cô lại.

“Con xin lỗi, thưa dì,” Emma nói tiếp. “Con biết mình không nên làm thế, nhưng con đã đổi ý. Đó dù sao cũng là một ngôi trường tốt, và con có những thầy cô tuyệt vời dạy vẽ cho con. Và Fidelio và Olivia vẫn ở đó, và cả Charlie nữa, dĩ nhiên rồi. họ không sợ gì cả, ngoài ra…” cô bé nhíu mày, “Ý con là, còn có những điều khác nữa… Các bạn khác chắc cũng đang cần con. Vì thế con sẽ trở lại.”

Nó cười tươi roi rói. “Và bây giờ con xin cảm ơn tất cả mọi người đã giúp con tìm ra mình alf ai, đặc biệt là Charlie, người khởi xướng tất cả mọi việc.”

“Chúc mừng Charlie,” cô Ingledew nâng ly lên để rót đầy rượu vào.

“Chúc mừng Charlie!” tất cả mọi người cùng nâng ly lên chúc mừng, và ở đâu đó đồng hồ bắt đầu điểm giờ.

Charlie chỉ mất vài phút mới nhận ra là toàn bộ căn phòng đang nhìn nó. Những ý nghĩ của nó đã trải đi xa lắc, với ai đó vẫn còn đang mê ngủ vào lúc 12 giờ đêm.


___Hết tập 1___

Dm mệt wa :khi5:
HD
HD
Mem có nhiều đóng góp
Mem có nhiều đóng góp

Tổng số bài gửi : 268
Thành tích : 241697
Điểm cộng từ admin : 64
Join date : 11/02/2011
Age : 28
Đến từ : Sai Gon

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết